Wap đa chinh thuc chuyen sang dia chi moi

CLICK VÀO ĐÂY - TRANG CHỦ Www.HaiPhongWap.Net

Haiphongwap.net

Wap tai game cho dien thoai, Tai Hack avatar, Hack nam quoc son ha, hack khu vuon dia dang mien phi

HAIPHONGWAP.NET

Haiphongwap.net - Wap tai game cho mobile
Haiphongwap.net - Wap tai game cho mobile, Tai Hack avatar, Hack nqsh, kvdd mien phi - Haiphongwap.net

- Game Ai Là Triệu Phú bản 2012 online tiếng Việt
- Game Half life CS 1.3.6 cho mobile
- Phần mềm diệt virus cho điện thoại
trang wap doc truyen sex hay, tai mien phi game anh sex, phim sex cho dien thoai
Havanphu.Wap.Sh
Home | Clip 3x | Game
Tải Ola ken, phần mềm chát sex Ola kul cho điện thoại
Game Đột Kích dành cho mobile giống trên PC
Game Angrybirds bản java cho s40
Hack Avatar 193 auto mod full ghép x2 max speed
PM Chụp ảnh xuyên quần áo (Hot)
Kho game Việt hóa, Online chọn lọc cực hay
Opera độ nén file cực cao, tiết kiệm GPRS tối đa
Game Boom giống Vinagame trên PC
Avatar hack tự động làm nông trại
Tải game cho điện thoại miễn phí

Trang Chủ
Truyện ma có thật

Mỗi lần đến thư viện thì tôi lại gặp hắn, như ngồi mãi một chỗ, chăm chú vào cuốn sách để trước mặt. Vẻ lạnh lùng, tóc bơ phờ, và nhất là đôi mắt kỳ lạ của hắn, ai đã nhìn qua một lần thì không thể quên được - đôi mắt tinh anh dị thường bao giờ cũng như nhìn vào một chốn thăm thẳm. 
Một hôm nhân cùng tìm một cuốn sách cổ quái, ít ai đọc đến, chúng tôi thành quen biết. Hai tâm hồn tương ứng xô đẩy chúng tôi lại gần nhau. Thế - người bạn trong thư viện - và tôi thường chỉ có một câu chuyện độc nhất để say sưa nói với nhau là thơ. Từ địa hạt thơ tôi đã đi lần vào trong cuộc đời thân mật của Thế. Anh ở một góc lầu cao, xa thành phố, thường rất ít đi lại với ai. 
Thú say mê nhất của Thế là thơ, triết lý và thuốc lá. Thế hút píp và có hơn mười cái, đủ kiểu to nhỏ, từ cái píp đầu lâu đến cái píp đầu thi sĩ Baudelaire, và không biết anh đã tìm tòi mua được ở đâu những cái píp quý giá như thế. Anh nâng niu píp như người xưa chơi đồ cổ, hơn thế nữa, anh yêu thương chúng như những sinh vật có linh hồn. Một hôm, Thế rủ tôi đi uống rượu và nói một cách thương tiếc: 
- Tôi vừa mất một người bạn thân. 
Sau hỏi ra tôi mới hay rằng vì một cử chỉ vô ý, anh đánh rơi gãy mất một cái píp đẹp. 
Một sự ham thích khác nữa của Thế là chơi đầu lâu. Mấy cái đầu lâu trắng tinh trang hoàng ở phòng mình, Thế đã mua hai cái ở Hà Nội, thời kỳ học ở trường thuốc, một cái mua ở Huế của cụ Ngáo, đao phủ thủ tại kinh đô bán; cái đầu lâu sau này là của một tướng cướp đào lăng vua bị chết chém. Còn một cái nữa, không rõ Thế mua ở đâu, và ngoài ra, hai cái đầu lâu khỉ. 
Những cái đầu lâu ấy nổi bật hẳn trên màu đen của gian phòng, và đây đó treo những bức thư ảnh của các thi sĩ Thế yêu: Edgar Poe, Baudelaire, Byron, Mallarme, Valéry. 
Bạn khác thường của Thế còn có một con mèo đen nhung chỉ thích được vuốt ve nằm trong lòng người và một con quạ. Con quạ toàn đen này Thế đã tập cho nó nói được và chỉ nói một câu như con quạ của Poe: Không có gì nữa hết! 
Người bạn dị kỳ của tôi chỉ sống để mà làm thơ và đọc sách, đi. Nhưng con người phong vận, cốt cách thi sĩ ấy lại không hề đả động tới đàn bà, và tránh nói đến họ. Đó là sự bí mật ở Thế mà tôi vẫn kiếm dịp để tìm hiểu. 
Một buổi tối lành lạnh, tôi đến thăm Thế, vừa lúc anh ngủ dậy, sau đêm thức suốt sáng đọc sách hay viết. Thế sống khác với người thường, ban ngày ngủ và đêm làm việc. Đêm mê say anh như hương thơm tách cà phê đậm. 
Dựa ngửa ra chiếc ghế lót đệm nhung, ngậm píp phì khói tỏa mờ, Thế thì thầm ngâm thơ. Ngồi một bên, tôi yên lặng nhìn đôi mắt xanh sáng của con mèo đen, vuốt qua làn lông mịn màng như nhung. Trong không khí thân mến, tôi khêu gợi đột ngột đến chuyện tình và mơn man dò hỏi tâm sự bạn. Thế ngập ngừng rồi dịu dàng bảo tôi: 
- Tôi không muốn nhắc nhở đến dĩ vãng vì buồn lắm, nhưng anh đã gạn hỏi, tôi không giấu giếm anh nữa, và để cho anh hiểu tôi hơn. 
Thế đứng dậy thổi tắt cây bạch lạp, vì anh vẫn thích nói chuyện trong bóng tối, những lời nói sáng tỏ hơn. Rồi với một giọng nhiều hơi, buồn buồn, Thế bắt đầu nói: 
- Trước hết, tôi cần nói rõ để anh biết về việc bị chôn sống là vấn đề có liên lạc mật thiết đến câu chuyện riêng của tôi sắp kể. 
Bị chôn sống là một sự thật nguy hiểm, ghê gớm, sự nguy hiểm to tát cũng như sự mê tối của loài người. Tôi đã tra cứu, tìm tòi trong y học và đã kinh nghiệm rằng nếu để trí suy xét thì không ai có thể chối cãi được rằng trường hợp rùng rợn này vẫn xảy ra. Có người may mắn tỉnh lại trước lúc chôn để tránh khỏi sự lầm lạc tàn khốc, nhưng ta phải nghi ngại rằng đã biết bao người bị chôn sống mà không bao giờ ai biết đến. 
Cái giới hạn chia hai sự sống và chết rất mù mờ và tăm tối. Ai có thể biết rõ được rằng lúc nào là hết sống và khi bắt đầu chết? Vì trước và sau khi chết, không có một sự phân biệt hiện ra trên người. Mạch máu hay hơi thở ngừng không thể là bằng chứng được. Không có một thời hạn bao lâu để chắc quyết là chết, và trái tim đã ngừng, có thể chịu vài ảnh hưởng trong thân thể rồi đập lại. Sự thực nghiệm ấy khoa học và y học ngày nay đã nói đến. Người chết thật rất chậm, không như ta tưởng. Trong lúc bề ngoài đã chết, kẻ bất hạnh vẫn có thể đang sống. Người chết nào cũng phải qua hai thời kỳ, liên lạc với cái chết và chết thật, nhưng y học còn chứng nghiệm rằng có khi gặp một thời kỳ khác: chết bề ngoài. Thời kỳ này là lúc những cơ quan nhận thấy rõ ở thân thể đều ngừng lại như bộ máy nghỉ chạy rồi trong một khoảng thì giờ qua, vì một nguyên nhân vô hình, người có thể trở lại với sự sống. Những cơ quan trong người đều chia ra các bộ phận riêng, tất cả dù là nương tựa vào nhau, đều có sự độc lập liên lạc. Mỗi bộ phận có thể sống biệt lập với cơ quan có dính líu đến. Cái chết không phải là một sự thay đổi hoàn toàn và chạm đến những bộ máy sống của thân thể. Bởi vậy khi người ta chết, những bộ phận trong người chưa ngưng trệ hẳn, nên rất khó khăn mà phân biệt được rằng cái chết của người này chỉ là bề ngoài, và người kia chết thật. Khoa học cũng phải công nhận rằng những trường hợp này thật khó mà biết rõ ràng được - phần nhiều người đều mặc số mệnh cho sự rủi may - và các vụ chôn sống vẫn xảy ra. Những tiếng kêu gào thảm thiết của người chưa chết hẳn mà đã bị chôn không được ai nghe đến và chúng ta cũng mặc cho số phận mình, nếu bất hạnh một ngày kia tỉnh dậy trong hòm. 
Thế ngừng lại, lấy thuốc cho thêm vào píp, đốt cháy rồi say sưa nói đến câu chuyện của lòng mình: 
- Quãng đời hai mươi tuổi của người thanh niên thường ít ra cũng có một cuộc tình ái điên cuồng mà tốt đẹp, và kỷ niệm ấy bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng: Tâm hồn giàu có tình cảm như chúng ta lại hay gây nên những tình duyên ly kỳ. 
Năm năm trước đây, tôi đang ở trong thời kỳ phát triển của tình cảm thì gặp và yêu một người con gái tên là Bích Trăng. Trăng là một tiếng sét đã làm sôi nổi tận đáy lòng tôi những tình cảm sâu sắc và bền chặt nhất về yêu thương. Trăng có một thứ nhan sắc châu ngọc mà tôi đã mường tượng trong thơ. Với tôi, Trăng là một người yêu có cả tình một người chị, một người mẹ hiền từ của phương Đông. Chúng tôi yêu nhau với tất cả say sưa, nồng nàn của tuổi hai mươi. Mặc dầu giữa Trăng và tôi có những sự cản trở của hai gia đình cổ kính vẫn không thích nhau. Thầy tôi làm quan, trên chức của thầy Trăng. Tính tình cương trực của thầy tôi đã gây nên một sự xích mích giữa hai người, và từ đó cả hai nhà không bao giờ đi lại với nhau nữa. 
Tự buổi đầu, Trăng và tôi cùng biết trước rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi sau này khó lòng mà thực hiện được. Nhưng chúng tôi không thể không yêu nhau được và khi người ta yêu... Tôi chăm chú theo đuổi cái địa vị độc lập, chắc chắn mai sau, trở nên một bác sĩ, và khi ấy Trăng cùng tôi sẽ tự do lấy nhau, nếu hai gia đình vẫn không bỏ hiềm khích cũ. 
Thế rồi một hôm đang thời kỳ lưu học ở Hà Nội, tự nhiên tôi thấy nóng lòng, băn khoăn rồi bỗng nhận được dây thép của một người bạn ở Huế cho hay tin Trăng chết. Cái chết đột ngột, dữ dội của Trăng đã làm đảo điên cả người tôi, và tưởng như mình đang mơ. 
Tôi xin phép nghỉ học để trở về Huế ngay chiều hôm ấy. Không muốn cho ở nhà biết, bước xuống xe lửa, tôi lại ngay nhà người bạn. Về cái chết thình lình của Trăng, tôi được hay thêm rằng nàng bị cảm, đau luôn một tuần rồi chết. Và người ta đã chôn nàng sáng ngày. 
Trăng đã chết thật, không còn nghi ngờ gì nữa, không còn gì nữa hết! Tự thâm tâm tôi hét lên một tiếng ghê gớm như làm tan vỡ cả linh hồn: Trăng ơi! Tất cả người tôi vang lên một điệu u trầm, ảo não: Trăng ơi! Hình như trong hồn, trong máu, trong phổi, trong tim tôi lúc bấy giờ đều chứa đựng toàn những mạch tình trìu mến, yêu thương da diết, quấn quít lấy Trăng. 
Tối hôm ấy, tôi ngây dại ra đi trong trăng mờ lạnh. Những tư tưởng điên cuồng nung nấu, sôi nổi cả người, lý trí bị ám hoặc, một ý nghĩ ghê gớm nảy nở và cắm rễ trong hồn tôi. Và như một cơn cảm hứng mãnh liệt, ý nghĩ ấy cứ lấn át, chiếm cứ lấy linh hồn. Tôi cuồng loạn theo uy lực của tình yêu bị kích thích đến cực điểm. Qua bao la, của đêm trăng mờ, tôi mê man theo sự xúc động điên cuồng, lần tìm đến mồ Trăng. ý nghĩ dị thường vẫn bùng cháy như một ngọn lửa: tôi rồ dại muốn nhìn thấy mặt Trăng. 
Đứng trên đồi chôn Trăng, dưới trăng mơ hồ mà trước kia tôi đã cùng Trăng say ngắm, đi qua chốn này, hôn nhau lần đầu tiên, tôi đau đớn ngây ngất khi nhìn thấy gò đất mới đã che lấp Trăng bên những ngôi mả trắng. Cơn bão táp trong não cân lại nổi lên ồ ạt, như một người điên, tôi vác cuốc đem theo mờ loạn đào mồ chôn Trăng. Đất mới đắp còn mềm, dễ bới, tôi say sưa với ý tưởng nhìn lại mặt Trăng, không còn biết gì là mệt nhọc. 
Nhớ lại khi ra đi đã khuya, đến lúc đào mồ Trăng gần đụng hòm thì nghe gà gáy, tôi hoảng hốt vội vã lên vì sợ trời sáng. Gió khuya ở trên đồi nghĩa địa thổi lên từng trận đem tiếng chó sủa trăng ở làng xa với những tiếng mõ canh lốc cốc. Trăng hạ tuần gần sáng càng tỏ rõ, mây đen từng lúc bay qua. 
Tôi mải miết đào, đất bắn khắp mình, quần áo lấm đầy mồ hôi vì nóng, vì cảm động. Đất khỏa ra hai bên người như mở con đường cho tôi đi đến với Trăng. Một tiếng chạm vào gỗ làm cho tôi rung động đến ngây người. Và chẳng bao lâu là tôi cạy mở được nắp hòm. Tôi kéo tung đồ liệm lên, màu vải tang đang còn mới ủ bốc lấy hơi người. Một cảnh tượng đời đời ghi chặt trong trí tôi mỗi khi hồi tưởng lại: nằm thẳng giữa đống đồ khâm liệm màu trắng, dưới trăng lạnh, mặt nhợt nhạt của Trăng có một vẻ thiên tiên lạ lùng. Những ý nghĩ điên cuồng, sôi nổi dịu dần trong trí tôi khi nhìn thấy mặt Trăng. Tôi đưa hai tay run rẩy cầm chặt lấy hai bàn tay Trăng, hai bàn tay cứng lạnh xưa kia đã ve vuốt đầu tóc bơ phờ của tôi. Những giọt nước mắt của tôi từ từ rơi trên má, trên mắt, trên môi nàng. Tôi mê man lặng ngắm Trăng rất lâu, lòng kêu rên những cảm hoài vô tận. Tưởng chừng tôi chỉ muốn ôm xác Trăng về cùng mình, vì không chịu thấu được sự chia ly, hiu quạnh đời đời. Tôi nghẹn ngào gọi tên Trăng trong lúc gió buổi hừng sáng thổi lướt trên đồi. Mặt trăng mờ nhạt tỏa xuống bóng tôi đang gục đầu trên ngực Trăng nằm trong chiếc hòm phá vỡ. 
Trời sắp sáng rồi. Tôi còn phải đậy hòm lại, lấp đất lên. Lần cuối cùng, tôi hôn lên đôi mắt nhắm kín của nàng - than ôi, đôi mắt không bao giờ còn nhìn tôi nữa hết - rồi lấy con dao nhỏ đem theo cắt lấy mớ tóc mịn màng của Trăng. Tôi vẫn tiếc nuối không nỡ rời đi, ôm chặt lấy hai tay nàng. Giờ phút ấy, tôi chỉ muốn trời đất tan sập đi, thành hư không như người trở về với cát bụi. 
Tôi còn ngây ngất trước cảnh tan nát xé dạ, thì lạ lùng thay, tay Trăng như động đậy trên tay tôi. Và, trước sự kinh ngạc của tôi, đôi mắt nhắm cứng của Trăng bỗng từ từ mở ra nhìn tôi. Rồi tự nhiên đôi môi của Trăng hé mở để lộ những răng trắng tinh. Không phải vì tôi quá cảm xúc mà bị mê hoặc đâu! Trăng bắt đầu uốn mình như người tỉnh dậy sau giấc ngủ đầy mệt nhọc. Và đôi mắt Trăng mở trân trân, ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang nằm trong hòm, giữa bãi tha ma, và bên nàng lại có tôi. 
Cái ý nghĩ Trăng bị chôn sống thoáng qua trí tôi đánh tan tất cả bỡ ngỡ, hãi hùng. 
Thế châm diêm đốt cái píp đã tắt rồi nói tiếp: 
- Tôi đã đến kịp để cứu Trăng ra khỏi cái trường hợp tàn khốc, ghê gớm ấy. Tôi tin rằng có một sức mạnh thiêng liêng, thần bí đã nhập vào hồn tôi. 
Khi đã gỡ Trăng ra khỏi đống đồ liệm, tôi cởi áo ra, đặt nàng nằm nghỉ cho tỉnh hẳn. Trong lúc ấy tôi nhét đồ liệm vào hòm, đậy nắp lại rồi đắp đất lên, không để lại dấu vết gì để ai có thể nghi ngờ rằng xác chết bị mất trộm hay người chết trong hòm đã sống lại. 
Trời vừa sáng thì tôi đã dìu Trăng về đến nhà người bạn. Trăng kêu khát và đói lắm vì đã ba ngày đêm ngất lịm. Uống sữa vào tỉnh hẳn người, Trăng cặn kẽ kể lại: 
- "Em đang đau bỗng mê man, nói sảng luôn mấy ngày, rồi đến lúc nguy kịch... Có buổi sáng, lý trí trở lại với em một cách thình lình, nhưng thầy thuốc chứng rằng mạch em đã yếu lắm. Em cũng tự biết đến hồi nguy ngập và hấp hối. Thời kỳ cuối cùng, em bắt đầu thấy không đau đớn nữa, mình nhẹ nhàng đi vào một thế giới mơ hồ. Từng lúc em có cảm giác rằng linh hồn được tự do bắt đầu thoát ly. Trong một cuốn sách về y học của anh cho em mượn đọc, em nhớ có nói rằng lúc gần chết, sức mạnh tinh thần của ta không bị đụng chạm gì đến, và ở những người mà tâm tính vẫn giữ được cứng cỏi thì linh hồn được thêm năng lực. Khi cơn bệnh được yên tĩnh đôi chút thì óc được tách ra làm việc như thường. Em đã nhận thấy đúng như thế sau vài lúc mê sảng, hoảng hốt như cuồng tâm. 
"Sau mấy hôm lịm đi, thình lình em bỗng tỉnh trí với tất cả sự sáng suốt. Trong giấc ngủ chết, tuy mình mẩy cứng đờ, không thể cử động được nhưng em vẫn nghe thấy lờ mờ chung quanh. Lúc ngất đi, em còn nghe tiếng đồng hồ đánh mười giờ, rồi như chớp, một sự đau đớn ghê gớm, chưa bao giờ cảm thấy, ồ ạt đến chiếm lấy người em. Cảm giác ấy tới rành rẽ và mau lẹ như một nhát dao đâm suốt qua xương thịt, mà còn khiếp đảm hơn nhiều. 
"Trong đêm đen tối, đột nhiên em nghe đồng hồ đánh năm giờ. Trước hết linh hồn em chịu tất cả những sự khó khăn để thoát khỏi chốn vô ý thức. Rồi ý nghĩ của em lần lượt theo nhau trở lại và như muốn giật lùi. Em cố cử động nhưng không một chân tay nào theo sự sai khiến của lý trí. Em còn ngờ nghệch trước cơn mê lịm của thể xác im lìm thì linh hồn bỗng sôi nổi lên, suy nghĩ một cách mau chóng lạ thường. Trong một chớp nhoáng của tâm thần sáng suốt, em thấy rõ trước sự kinh đảm của người chết. Trên hai sợi dây đưa quan tài xuống địa huyệt, xác mình đụng vào săng, còn ở trên, những người thân yêu vứt xuống nắm đất vĩnh quyết. Và trên hòm, có tiếng nện đất, rồi đắp mộ xong, mọi người xây lưng lại, trở về với cuộc đời. Em tưởng tượng ra dưới tận chỗ ở cuối cùng hết sức chắc chắn và kín đáo, sự lạnh lẽo ghê gớm của bóng tối bất diệt. Em nghĩ đến anh, anh yêu dấu của em ở xa xôi không hay biết gì hết. 
"Em tưởng rằng trường hợp của em không phải là khác thường và có lẽ lúc chết ta vẫn luôn luôn có ý thức, linh hồn còn sáng suốt trong cái thân xác cứng đờ, người chết có lẽ phải biết qua các lúc tẩm liệm. Trong cảnh ngộ hãi hùng ấy, nghĩ đến đêm lạnh đời đời dưới đáy huyệt âm u, linh hồn sẽ tiêu tán theo xác thịt hay là về đâu? Em đau đớn nghĩ đến anh bơ vơ, cô độc, đời anh không có em thì buồn khổ, hiu quạnh biết chừng nào. Thế rồi em ngất đi...." 
Thế kể tiếp: 
- Người nhà Trăng thấy tim nàng ngừng đập, da và môi nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền, thân thể cứng lạnh, mạch đứng, nên cho là chết thật. Vì cái chết bề ngoài của Trăng rõ ràng như thế, thì không ai có thể nghi ngờ và không vin vào cớ gì để nghi ngờ rằng Trăng chưa chết hẳn. Và sự chôn lầm người còn sống bởi đây mà ra. Chính lúc tôi đào mồ Trăng lên cũng thấy nàng nằm trong một dáng điệu của người chết. Sự may mắn kỳ diệu là Trăng tỉnh ra giấc ngủ chết, cái chết bề ngoài, nhằm lúc tôi phá hòm chôn đựng nàng. 
Sự sung sướng vô cùng của chúng tôi gặp lại nhau trong một trường hợp dị thường như thế, loài người không có thứ tiếng gì để tả nổi. 
Tôi phải giấu giếm việc Trăng được cứu khỏi bị chôn sống, đợi nàng thật lành mạnh rồi chúng tôi bỏ Huế vào Sài Gòn, sống xa lạ hẳn để không ai tìm biết được cuộc tình duyên lạ lùng của Trăng và tôi. Tôi viết một bức thư về nhà nói mình vì thích phiêu lưu nên đã xin làm dưới tầu đi ngoại quốc. Đối với gia đình, tôi thấy có lỗi nhưng tôi biết rõ tính tình cương quyết cực điểm của thầy tôi không bao giờ cho phép tôi lấy con một người mà thầy tôi đã khinh. 
Chúng tôi sống cùng nhau được mười ba tháng thương yêu tha thiết thì Trăng chết, và lần này chết hẳn thật. Trái tim của nàng trước kia đã yếu vì lần chôn sống càng yếu thêm, rồi mỗi ngày thêm nặng, và nàng đã nhắm mắt trong tay tôi. 
Im lặng một lúc, Thế kết luận: 
- Bây giờ anh đã rõ tại sao tôi tránh không muốn nói đến đàn bà. Người ta chỉ một lần yêu... Sau Bích Trăng, đàn bà đối với tôi không có gì nữa hết! 
Lời Thế vừa dứt, trong im lặng, đen tối, con quạ của chàng lặp lại: Không có gì nữa hết! 
Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu, và trong lắng chìm của bóng tối u huyền, vang ngâm giọng Thế đọc theo nguyên văn bài thơ của nhà thi sĩ Mỹ: 
"Một hôm giữa cảnh đêm khua rờn rợn ta đang mỏi mệt gục đầu trầm ngâm đọc lại mấy cuốn sách cổ kỳ dị không còn ai tìm đến. Trong khi ta lao đao muốn ngủ, thốt nhiên, nghe tiếng động se sẽ, như tiếng ai gõ nhẹ vào cửa phòng ta. Ta lẩm bẩm: "Chắc ai lại thăm gõ cửa phòng ta; chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết". 
"à, ta nhớ lại rõ ràng, đêm hôm ấy vào khoảng tháng chạp lạnh lùng; mớ củi tàn xơ xác nằm chơ vơ in bóng trên mặt đất. Ta thì nóng lòng chờ trời mau sáng vì u sầu tràn ngập cả hồn, ta cố khuây lãng trang sách mà không được. Ta buồn rầu tưởng nhớ đến Bích Trăng không còn nữa, nhớ đến nàng yêu kiều lộng lẫy mà thiên tiên kêu gọi là Bích Trăng, chờ dưới trần gian không còn có ai gọi đến tên nàng nữa hết. 
"Tiếng mơ hồ, dìu dịu, rầu rầu của mấy tấm màn điều lao xao thấm đượm, tràn ngập hồn ta những rùng rợn gớm ghê, mà chưa bao giờ ta đã cảm rung như thế, - đến nỗi ta phải nhắc nhở mình luôn cho lòng bớt hồi hộp: "Chắc khách qua đường muốn vào đây tạm nghỉ trọ, chắc vậy chớ không có gì nữa hết". 
"Tâm trí lần lần mạnh dạn lên, rồi tôi không ngập ngừng lâu nữa: "Ông hay bà nào ngoài đó, tôi xin thất lỗi, số là tôi đang chập chờn ngủ thì ông hay bà lại gõ cửa, nhưng tiếng gõ khẽ quá, tiếng gõ cửa phòng nhỏ quá, nên tôi cũng không rõ là có ai gõ thật hay không". Nói rồi tôi mở toang cửa ra - ở ngoài chỉ là bóng tối đen, và không có gì nữa hết! 
"Nhìn sâu vào bóng tối u huyền, tôi đứng lặng giờ lâu, vừa kinh ngạc, sợ hãi, nghi ngờ, tưởng tượng những chuyện lạ lùng mà chưa bao giờ kẻ trần gian nào dám nghĩ đến; nhưng đêm vẫn im phăng phắc, bóng tối quạnh hiu, và chỉ một tiếng lẩm bẩm: "Bích Trăng". Chính tôi đã lẩm bẩm gọi tên nàng và tiếng dội thì thầm "Bích Trăng!" - Chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết. 
"Tôi trở vào phòng đóng cửa lại, tâm hồn nóng hực, bỗng lại nghe tiếng gõ mạnh hơn lần trước. Tôi tự bảo thầm: "Chắc có cái gì ở cửa sổ, ta phải tìm ra sự bí mật này. Hãy để cho lòng bớt hồi hộp, rồi tìm ra sự bí mật này" - chỉ là tiếng gió thổi và không có gì nữa hết. 
"Tôi mở cửa sổ ra, thì một con quạ đen lớn, một con thần ô thiên cổ, sột sạt trên cánh cửa bay vào. Nó không tỏ vẻ gì sợ hãi, cứ nghiễm nhiên mà vào với vẻ mặt ông hoàng hay bà chúa, đậu trên cánh cửa phòng tôi, ngay giữa đầu bức tượng vị nữ thần; nó đậu yên đó, và không có gì nữa hết. 
"Vẻ trịnh trọng, oai nghiêm của dáng điệu và nét mặt con chim đen nhánh làm cho tôi đang buồn cũng phải hóa cười. Tôi nói - "Này hỡi quạ, giống chim quái gở tự đời nào từ chốn Hoàng tuyền thăm thẳm đến đây, dẫu cho cái đầu ngươi đã bị cạo gọt, nhưng ta chắc ngươi không phải là một con chim nhút nhát - vậy ngươi hãy nói cho ta biết danh hiệu cao quý của ngươi ở chốn Hoàng tuyền thăm thẳm là gì? " Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" Tôi lấy làm lạ rằng con chim xấu xa kia lại biết nói rõ ràng như thế, tuy câu trả lời của nó không được nhiều ý nghĩa và hợp thời cho lắm; nhưng thử hỏi có bao giờ ai là người đã được trông thấy một con chim trên cửa phòng mình mà xưng danh hiệu là "Không có gì nữa hết". 
"Con quạ đứng chơ vơ trên bức tượng lạnh lùng, chỉ nói một câu đó thôi, hình như trong đó ngụ hết cả tâm hồn tôi lúc bấy giờ. Nó không nói thêm gì nữa hết, nó không rung động đến mảy lông - cho đến khi tôi nghẹn ngào, se sẽ nói: "Bạn bè tâm huyết của ta biết bao người đã bỏ ta mà đi xa rồi; và đến sáng ngày người cũng sẽ bỏ ta mà đi nữa, như những lời nguyện ước cũ". Con chim lại nói: "Không có gì nữa hết!" 
"Giữa im lặng, câu trả lời đúng hợp như thế khiến tôi thất kinh tự bảo mình rằng: Tưởng chừng con chim này chỉ biết nói có thế, nhưng chắc đã học được câu này của một thi sĩ ba đào, bị thần tai họa tàn ác đánh đuổi không ngừng, khiến nên bài thơ nào cũng chỉ quay về một điệp khúc thảm sầu tuyệt vọng: "Thế là hết, không có gì nữa hết!" 
"Nhưng lòng đang buồn tê tái nghĩ đến con quạ cũng phải lấy làm lạ và buồn cười, tôi liền kéo ghế đệm đến trước mặt con chim, bức tượng và cánh cửa; rồi gục đầu trên nhung buồn, tôi ngẫm nghĩ, mơ màng xa xôi để tìm cho ra vì đâu con vật trầm triệu xấu xa, ốm yếu, con thần ô thiên cổ lại đến đây mà kêu: "Không có gì nữa hết!" 
"Trong khi tôi đang trầm ngâm thì con chim với đôi mắt sáng quắc như soi thấu tận đáy lòng; trong khi tôi cố xét đoán nghĩ đến ngàn vạn đường, gục đầu trên làn nhung óng ả dưới ánh đèn, màu nhung tím óng ả dưới ánh đèn, mà xưa kia nàng đã gối đầu nhưng ngày nay không còn nữa, than ôi, không còn gì nữa hết! 
"Đang nhiên không khí hình như bỗng dịu dàng, ngào ngạt hương thơm tỏa ra ở một đỉnh trầm do các vị thiên tiên từ trời hiện xuống nhẹ nhàng lướt qua nệm lót trong phòng. Tôi la lớn: "Hỡi nhà thi sĩ khốn khổ! Trời đã động lòng sai thiên tiên đem xuống cho ngươi ly rượu quên sầu đỡ tiếc thương nhớ đến Bích Trăng. Vậy thì ngươi hãy uống đi, uống đi ly rượu quên sầu, nhớ chi mãi đến Bích Trăng mệnh bạc!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" 
"Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, ngươi do ác thần sai đến hay là bị bão táp phiêu dạt lại đây! Nhưng ngươi đã đến chỗ trầm luân khổ ải, nơi hoang lương rùng rợn ám ảnh này, thì ta xin ngươi thành thật nói cho ta biết rằng ở miền Cực Lạc có chăng, có chăng hương vị để quên được hết u sầu? Nói đi, ta van người làm ơn nói cho ta biết với!. Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" 
"Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, dưới bầu trời ngươi với ta cùng sống, cùng thờ một đấng Thượng đế, xin ngươi hãy nói cùng tâm hồn sầu khổ vô hạn này rằng một ngày kia ở trên Thiên đàng vời vợi, ta có còn lại được âu yếm người con gái thanh tiết mà thiên tiên đã gọi là Bích Trăng, âu yếm một người con gái yêu quý lộng lẫy mà thiên tiên gọi là Bích Trăng! Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" 
"Tôi dựng đứng người hét lên: "Thôi thôi câu nói này là dấu vĩnh quyết giữa người và ta, dầu ngươi là chim hay là quỷ! Ngươi hãy trở về trong gió bão, chốn Hoàng tuyền thăm thẳm, ngươi đừng có để lại một mảnh lông đen nào của ngươi như là ghi sự láo xược, nguyền rủa đất trời của ngươi. Hãy để mặc ta sầu thảm một mình, ngươi hãy rời khỏi bức tượng ở phòng ta ! Ngươi đừng ở lại đây mà đâm xé trái tim ta nữa! Hãy đi mau, ngươi đừng để cái bóng đen nghì nghìn thu thiên cổ in hình lên cửa phòng ta!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" 
"Nói thế rồi nó vẫn luôn luôn đứng yên trên bức tượng nhợt nhạt của vị nữ thần, ngay trên cửa phòng tôi. Hai con mắt của nó giống đôi mắt hung thần đang nghĩ ngợi; ánh đèn trôi chảy trên mình chiếu bóng nó xuống đất - và tâm hồn ta trong cái bóng là là như nằm chết đó; không biết bao giờ bay lên được nữa - không bao giờ nữa hết!"

- Trang Chủ | Clip Sexy | Game

Lưỡi dao bị nguyền rủa

Cái chết đi cùng với họ, nhưng chỉ một người duy nhất trong thủy thủ đoàn biết điều đó. Cũng chính vì nó mà hắn ta đã bước chân lên con tàu này, rình mò để chờ cơ hội.
Gã đâu thèm quan tâm đến tất cả những vàng bạc, những bức tranh quý hiếm, những đồ nữ trang, những thứ lụa tuyệt đẹp ngày nào đã trang điểm cho hằng sa số những người đàn bà Hồi giáo. Gã chỉ muốn với tay tới một vật duy nhất!
Người đàn ông đó tự xưng là Malraux, nhưng đó không phải là tên thật của gã. Tên thật này không một ai trên tàu được biết, và gã cũng sẽ không bao giờ nói cho nghe. Gã phải giữ mọi việc trong vòng bí mật tuyệt đối. Mà khi mọi việc đã qua đi, người ta sẽ lại càng không dám thốt lên lời nào.
Hiện gã đàn ông vẫn còn nằm trên võng, trong căn phòng bên dưới boong tàu. Xung quanh gã là một bầu không khí ngột ngạt, nồng nặc, đặc quánh đến cả những con ruồi béo phị cũng ngừng bay, tìm chỗ nghỉ. Chẳng ai biết chúng xuất phát từ đâu, nhưng loài côn trùng quỷ quyệt đã tìm được đường đi riêng và bây giờ đang hiện diện nơi đây như muôn vàn đốm nhỏ óng ánh.
Malraux nghĩ tới việc con tàu này tới một lúc nào đó sẽ sang với Tân Thế Giới, để toàn bộ của cải châu báu của dòng đạo Templer được đưa về nơi an toàn. Khác với tại châu Âu, dòng đạo Templer không bị những dòng đạo khác ở Mỹ truy đuổi và tàn sát. Ở lục địa già, cứ mỗi khi ló mặt ra là thành viên của nhóm Templer đều biết điều duy nhất đang chờ họ là tra tấn, nhà giam và cái chết.
Gã đâu có muốn đi cùng con tàu này tới tận Tân Thế Giới. Gã đã lên thuyền tại Genua và họ đã vui vẻ đón nhận gã, bởi đa số thủy thủ đều e ngại cảnh cô đơn trên con đường dài vượt đại dương. Những con đường phủ đầy những cơn bão khủng khiếp, cái khát, cái nóng thiêu đốt dưới mặt trời đổ lửa, bệnh tật và cái chết. Chỉ những người đàn ông đặc biệt dũng cảm hoặc những người đàn ông chẳng còn gì để mất mới tham gia những chuyến đi nguy hiểm như thế này. Bản thân Malraux không biết mình thuộc nhóm người nào. Vì thế mà gã đàn ông đã tự tưởng tượng ra một nhóm người thứ ba và xếp hắn vào đó.
Đoạn đường từ Genua tới trạm giữa Marseile kéo dài vài ngày, bởi đầu tiên họ phải đi ngược chiều gió thổi từ hướng Tây hoặc Tây nam. Trong khoảng thời gian này, nhất định gã phải đạt được mục đích của mình.
Họ đã đi dọc bờ biển này đến hai ngày rồi, nhưng không bao giờ vào gần bờ tới mức người trên bờ có thể nhìn thấy. Lang thang trong vùng nước này chẳng phải là không nguy hiểm, đặc biệt đối với một con tàu có in hình cây thập tự Templer trên cánh buồm.
Lẽ ra phải quét vôi lên trên cây thập tự đó, nhưng lòng tự hào của những người trên tàu không cho phép. Thay vào đó, họ dự định vào vịnh Marseile trong đêm và một số người trong họ sẽ lên bờ ngay trong đêm đó để né tránh bàn tay truy lùng của Giáo hoàng và các vị giám mục Thiên Chúa giáo cũng như của cảnh sát ngoài đời. Tất cả những nhóm người đó đều rất muốn chiếm kho báu của dòng đạo Templer, bởi tất cả đều tham lam và đều đang sắp phá sản.
Chuyện đó chẳng khiến gã đàn ông mảy may quan tâm tới. Gã chỉ biết đến một mục tiêu duy nhất. Gã cũng sẻ biến mất tại Marseile, sẽ trà trộn vào đám người trên bến cảng để rồi chìm xuống không để lại một vết tích, như một con chuột lẫn vào trong hang sâu tăm tối.
Mặt biển tương đối yên lặng. Gã vừa thực hiện xong ca gác của mình. Ca gác tới sẽ chỉ bắt đầu khi màn đêm buông xuống nhưng sẽ có lượng người canh chừng gấp đôi. Thế nên dù có màn bao bọc của bóng đêm, đi tìm vật thể mà gã mong muốn vào thời điểm đó sẽ nguy hiểm hơn. Gã quyết định thực hiện kế hoạch dưới ánh sáng ban ngày.
Rất nhiều thủy thủ trên tàu không biết những gì đang được chứa trong những hòm rương trông rất đỗi bình thường đó. Người ta nói với họ rằng đó là thực phẩm và họ tin ngay lập tức.
Nhưng Malraux thì không.
Tỉnh như sáo, gã nằm thức trên võng trong khi những thủy thủ khác đều ngủ say. Gã nghe tiếng họ ngáy và cảm thấy ghê tởm. Đáng tiếc, gã phải chờ. Gã biết có một khoảng thời gian kể cả những người lính đang canh cũng sẽ giảm tập trung và ngủ nhiều hơn là gác.
Con tàu khẽ chòng chành. Những chuyển động truyền vào võng. Tiếng gỗ cọt kẹt, con tàu đang rên lên, cứ như thế nó đang khổ sở khủng khiếp vì chuyến đi này. Nếu cơn bão nổi lên thì không biết nó còn rên siết tới mức nào nữa?
Malraux nhìn trân trân lên trần phòng, làm như trên đó có treo một tấm gương cho hắn soi. Quả thật, hắn đang nghĩ tới ngoại hình của mình. Những ai gặp hắn thường tỏ vẻ coi thường khi thấy hắn quá nhỏ bé. Họ đâu có để ý đến cấu tạo cơ thể hắn. Gã có rất nhiều cơ bắp, rất khỏe mạnh và trong một vài tháng trời sống tại xứ Osamanen, gã đã học được nghệ thuật đấu vật. Một khi đã tóm được ai vào trong vòng tay, hắn có thể giữ nguyên người này ở tư thế đó thật lâu cho tới khi anh ta chết vì ngộp thở. Hắn đã thử nghiệm điều đó rất nhiều lần, rồi bình tĩnh bỏ đi, để lại những thân hình mất hết sức sống.
Đó là một thời gian tràn đầy bạo lực, chỉ có những kẻ nhanh hơn và mạnh hơn mới sống sót.
Những người khác vẫn đang ngủ.
Họ ú ớ, họ ngáy, một số người nói lảm nhảm trong mơ. Những người khác lại rên rỉ, một số vật vã và một số làm tất cả những điều đó. Cái mùi tỏa ra từ người họ thật ghê tởm. Nó bốc lên mùi mồ hôi, mùi đàn ông, mùi ghét bẩn và Malraux cũng biết trên con tàu này có quá đủ mọi loại côn trùng để truyền bệnh từ người này sang người khác.
Hắn chờ thêm một vài phút nữa, rồi gạt cái võng sang bên. Việc đứng dậy thật ra không khó, nhưng những người thủy thủ nằm quá sát nhau nên nếu không chú ý, hắm sẽ đạp phải họ khi nhảy từ trên võng xuống.
Hắn cẩn thận từng bước một. Linh cảm cho hắn biết bây giờ là lúc hắn có thể ra tay. Không chờ đợi nữa, bởi đột ngột hắn có cảm giác như con tàu này là con tàu bị nguyền rủa. Nếu hắn không lầm, thì hắn thậm chí vừa thoáng nhìn thấy một con chuột béo phì – cái thứ rác rưởi báo trước thảm họa.
Những kẻ thù đã biết người thuộc dòng đạo Templer muốn bỏ trốn và đã tụ tập những con tàu của mình lại. Cũng đã không ít người bỏ thân nơi đáy đại dương.
Malraux chạm chân được xuống đất. Đầu tiên, hắn nhướng đầu ngón chân cái, rồi hắn đặt cả bàn chân. Hắn đi một đôi giầy rất nhẹ bằng da và vải. Hắn có thể chuyển động mà không gây ra một âm thanh nào. Tất cả những món đồ lặt vặt quanh đây chẳng bõ cho hắn mang theo, đằng nào hắn cũng chỉ lôi chúng lên thuyền cho mục đích ngụy trang. Toàn đồ chẳng mấy giá trị. Thoáng nhẩm lại, gã đàn ông tin chắc hắn hành động đúng và thời điểm này là lúc ra tay thực hiện kế hoạch. Chỉ chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa thôi, có thể mọi việc đã trở thành quá muộn.
Căn phòng hẹp, đầy những người ngủ và rất u tối, mặc dù có hai ngọn đèn cháy ở khoảng tường trước mặt.
Gã đàn ông bò trên cả tứ chi. Cách ra cửa tốt nhất là chịu khó chui xuống bên dưới những chiếc võng. Chúng treo trên đầu hắn như những tấm lưới nặng nề. Gã đàn ông nghe âm thanh của những người đang ngủ. Nhiều cái võng đã oằn xuống dưới sức nặng của người nằm, đến độ quệt cả vào tóc gã.
Con đường dẫn vào phòng chứa đồ được hai người lính canh chừng. Họ có vũ khí, thế nhưng Malraux không sợ. Xử lý hai người này là chuyện dễ dàng. Hắn lại có lợi thế là đã quen biết họ trong mấy ngày qua.
Con tàu chòng chành chầm chậm bước theo những đợt sóng dài. Gã đàn ông có mái tóc đen và bộ ria lởm chởm lẹ làng chuyển động theo nhịp sóng. Không khí thật ngột ngạt. Cả gương mặt và toàn bộ cơ thể hắn bây giờ phủ một lớp mồ hôi rất dày. Gã cũng bốc mùi chẳng khác gì những người đàn ông đang ngủ kia.
Gã bò về phía cửa.
Tới bên ngưỡng cửa, gã đàn ông đứng lên, chạy đến bên một cửa sổ nhỏ, ném một cái nhìn về hướng Bắc – hướng đó là bờ biển nước Pháp.
Gã chưa nhìn thấy nó, nhưng gã có thể linh cảm ra nó, bởi có những đường viền mờ mờ đang hiện lên dưới ánh mặt trời gay gắt. Gã sẽ dễ dàng vượt qua được khoảng cách này, nó hoàn toàn chẳng thành vấn đề đối với người bơi giỏi như gã. Ngoài ra, hướng sóng cũng đang đổ về biển và đang có một cơn gió nhè nhẹ thổi tới từ hướng Nam. Những kẻ khéo léo như gã có thể để cho sóng mang mình lên, và thậm chí còn nghỉ ngơi trong khi bơi.
Mọi việc diễn ra trôi chảy. Khi cẩn thận mở cánh cửa ra, hắn chẳng nhìn thấy người lính gác nào. Cửa gỗ có kêu lên cọt kẹt đó, nhưng chắc đám đàn ông đã quá mệt trong một ca gác quá dài.
Hắn lẻn ra ngoài.
Ngay lập tức, hắn cảm nhận được một luồn gió thổi thẳng vào mặt. Nó thoáng và lạnh hơn, gây cảm giác dễ chịu, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để xua khô lớp mồ hôi dày trên mặt hắn.
Từ bên trên, ánh nắng len lỏi qua những kẻ hở trên những tấm ván, rọi vào không gian trong bụng chiếc tàu buồm và vẽ lên trên mặt đất bẩn thỉu những hình ngoằn ngoèo sáng màu, nơi có vô vàn hạt bụi nhỏ đang nhảy múa.
Gã đàn ông biết gã phải đi về đâu. Những ngăn kho lớn nằm ở giữa và đuôi con tàu. Nơi gã muốn tới là một phòng nhỏ nằm ở dãy kho đầu.
Con tàu đã được tạo dựng rất tiện lợi. Ở giữa có một lối đi chia phía dưới boong tàu ra làm hai nửa. Bên phải và bên trái là những dãy nhà kho chất đầy hàng.
Trước khi ra tới được lối đi ở giữa đó, gã đàn ông phải mở thêm một cánh cửa khác. Cánh cửa này gắn vào một vách ngăn ngang và đằng sau cánh cửa có hai người lính gác đang ngồi.
Gã biết rõ như vậy. Gã đã chuẩn bị thông tin từ trước. Tình hình hôm nay chắc chắn cũng sẽ như thế.
Malraux cất bước đi. Lẹ làng khéo léo như một tên ăn trộm. Hắn không mang vũ khí, nhưng đôi bàn tay với những ngón tay ngắn khỏe không ngừng chuyển động. Không được để cho chúng trở thành đờ đẫn, dại khờ! Những người dân ở xứ Osmanen đã dạy cho hắn một số mánh khóe, có thể dùng tay trần bóp chết người.
Bầu không khí u ám trong bụng con tàu như một làn khói cô đặc. Một bầu không khí không bao giờ thật sự yên lặng. Mặc dù hắn không nghe thấy tiếng bước chân người, nhưng tiếng sóng vỗ không ngừng vào vách gỗ tạo nên một nền âm thanh luôn hiện hữu. Cả những ván gỗ thật ra cũng luôn phát âm thanh và chuyển động. Chúng rên rỉ như những tù nhân. Đứng ở đây, gã không nghe thấy tiếng reo ù ù của cánh buồm, tiếng thổi phần phật của vải, vốn được một số người coi là bí hiểm. Chỉ thỉnh thoảng gã mới nhận ra âm thanh trầm **c của những bước chân chạy trên boong. Thỉnh thoảng hắn lại nghe tiếng ra lệnh vẳng nhẹ từ bên trên xuống, hoặc một tiếng thét, một câu chửi rủa. Thế thôi.
Có cái gì vút qua mặt hắn như một bàn tay hết sức dịu dàng. Đó là đám lưới nhện đang phủ lòng thòng từ trên trần phòng xuống. Nhện ở đây không lo chết đói. Thỉnh thoảng lại có những con ruồi béo phì sa vào lưới.
Đến bên buồng gác, Malraux dừng chân. Hắn biết hắn chỉ có một mình, mặc dù vậy hắn vẫn cẩn thận nhìn quanh. Gã đàn ông không phát hiện ra ai. Gã cũng không nghe thấy âm thanh nào khả nghi. Trong một góc phòng có những cây bạch lạp đang cháy. Chúng chảy ra, trông như những khúc xương da trắng đã bị vứt đi.
Đằng sau vách ngăn ngang là hai người lính gác. Đó không phải là thủy thủ, mà là những người lính được thuê về đây. Họ không quan tâm tới chuyện các giáo phái và họ chỉ chấp nhận tiền lương bằng vàng. Trong phòng họ ngồi bây giờ không tối hẳn, bởi ánh sáng đang lọt vào qua những khe hở nhỏ trên những vách gỗ. Mặc dù vậy, căn phòng vẫn gây ấn tượng rất u ám, như đang có vô vàn những bóng đêm nhảy múa trên nền phòng.
Malraux gõ cửa.
Gã không gõ chậm hay gõ khẽ. Gã đập thật mạnh cả nắm đấm vào cánh cửa gỗ, đòi hỏi, yêu cầu, để hai người lính trong kia biết có người đang muốn vào trong.
Đầu tiên, không có phản ứng. Thế rồi hắn nghe thấy một tiếng động. Thanh chắn bằng gỗ ở phía trong được kéo sang bên. Cánh cửa mở. Nó vừa mở vừa kêu lên một tiếng kêu tởm lợm khiến Malraux nổi da gà. Quầng sáng của một ngọn đèn dầu chiếu vào hắn, người lính gác đang giơ cao cây đèn, giơ thẳng lên trên đầu khiến những bóng đèn phủ lên mặt anh ta.
Malraux không nhìn thấy mặt người lính gác bởi nó đã chìm xuống trong cái hỗn hợp giữa bóng đen và ánh đèn. Nhưng hắn nghe được giọng anh ta.
- Anh muốn gì?
- Tôi phải nói chuyện với các anh.
- Thế thì nói đi.
- Không phải ở đây. Đừng để cho ai nghe thấy tiếng chúng ta. Chúng ta… ta phải nói chuyện riêng.
- Tại sao?
Người lái tàu cử tôi xuống. Anh ấy… anh ấy có một thông điệp gửi riêng cho hai anh. Mọi việc đã được thống nhất với thuyền trưởng. Vàng, rất nhiều vàng. Kể cả những đồ nữ trang quý giá.
Người đàn ông chần chừ. Malraux nghe thấy tiếng anh thở. Cả hai khái niệm “vàng và đồ nữ trang” luôn dễ dàng khiến cho những tên lính đánh thuê dỏng tai lên. Họ không biết những cái hòm kia đang chứa những gì. Họ chỉ nhận nhiệm vụ canh giữ chúng, tất cả những chuyện khác họ không quan tâm tới.
- Vào đi!
Người lính gác thứ hai lên tiếng. Anh ta ngồi bên một chiếc ghế thấp, ở phía bên kia quầng sáng nên Malraux không nhìn ra anh ta.
- Có chuyện gì? – Anh ta hỏi.
- Anh này mang thông tin lại.
- Của ai?
- Của người lái thuyền. – Malraux nói nhanh. – Chuyện này dính dáng đến rất nhiều vàng, có lẽ nên cân nhắc.
Giờ thì người lính gác thứ hai cũng đứng dậy. Nỗi tham lam lóe sáng trên con mắt. Cả hai người đã bỏ mũ xuống, tấm khiên che ngực cũng vậy. Không khí trong lòng thuyền quá nóng, họ đã cởi chúng ta cho thoải mái.
- Nói cho tôi nghe đi. – Tên lính có vẻ háo hức.
Malraux vẫn còn chờ đợi. Họ có hai người. Gã phải tìm cách phân tán tư tưởng họ. Mà họ lại đang mang vũ khí. Những lưỡi giáo của họ ánh lên trong ánh sáng của lưỡi lửa bập bùng từ đĩa dầu.
Gã đàn ông thè lưỡi liếm môi, xin một ngụm nước.
- Chúng tôi không có. – Một tên nói.
- Có chứ, tôi biết là…
- Cho nó đi! – Người đàn ông đã mở cửa ban nãy vụt nói.
- Tùy anh.
Người đàn ông thứ hai bước vào phần trong của căn phòng tăm tối. Chỉ còn một người ở lại.
Malraux mỉm cười. Người đàn ông đó đứng bên cạnh gã, mũi giáo đang chỉa xuống đất. Kẻ lẻn vào chờ thời điểm thích hợp. Khi nghe thấy tiếng nước chảy, hắn biết là bây giờ nước từ trong một thùng rất lớn đang được chia sang thùng nhỏ.
Gã ra đòn nhanh hơn chớp.
Người lính gác hoàn toàn bất ngờ khi một khuỷu tay cứng như đá thúc mạnh vào giữa thân thể anh. Anh gục xuống, cảm giác khó chịu trào lên, khiến anh không kịp kêu ngay lập tức. Anh ngã người về phía trước.
Malraux chỉ chờ có vậy. Gã đấm hai lần vào gáy người đàn ông.
Người lính gác xỉu xuống. Malraux đã giành lấy cái giáo trong tay anh.
Gã đàn ông lại mỉm cười lạnh lùng đi về phía trước, đến gần bóng tối.
Tiếng bước chân vang lên. Người lính gác thứ hai quay trở lại. Chắc chắn anh ta đang cầm một bình đầy nước. Anh ta không mang vũ khí, và không biết là Malraux đang chờ cho tới lúc nhìn thấy hình dáng anh hiện ra trong quầng tối.
Gã lấy đà, và phóng cây giáo nặng.
Người lính gác hoàn toàn bị bất ngờ. Malraux không nhìn được rõ chi tiết. Gã chỉ nhìn thấy dáng người đó còn giật sang bên trái rồi sang bên phải một thoáng trong bóng tối, cái bình đựng nước đập xuống dưới đất. Thế rồi cả thân hình người đàn ông cũng đập xuống. Kêu lên một tiếng trầm **c, thân người đó giáng xuống nền phòng rồi không động đậy nữa.
Malraux hài lòng. Gã đã chuẩn bị rất tốt và bây giờ gã biết rất chính xác, gã có thể tìm phòng đựng đồ vật ở chỗ nào. Những cánh cửa thậm chí không được đảm bảo bằng khóa hay dây xích. Hắn chỉ cần dùng một thân gỗ nặng và đẩy chúng sang bên.
Sau khi đã làm việc đó xong, gã quay trở lại, lấy cây đèn dầu. Gã không quan tâm đến xác chết, mà cũng chẳng thèm ném một cái nhìn xuống thân người đang ngất.
Người đàn ông không động đậy.
Malraux đoán chắc, bây giờ gã sẽ không bị ai cản trở. Gã đang rất hồi hộp. Đôi môi gã run rẩy, hai đầu gối như đang mềm ra khi bước vào căn phòng chứa châu báu, đặt cây đèn sang một bên, lấy một hơi thật sâu và đưa mắt nhìn quanh.
Nó có ở đây không?
Có!
Cái hòm đó ở ngay bên cạnh hắn. Gã đàn ông thì thào:
- Giờ thì ta sẽ ra tay…

Chương 2

Cái hòm này trông không giống những cái hòm khác, thường mang hình dáng rương đựng đồ. Cái hòm này nhắc người ta nhớ tới một chiếc quan tài, và hình dạng đó có nguyên do riêng của nó.
Malraux không đến đây tay không. Hắn đã dắt sẵn vào lưng quần một khúc gậy sắt buộc vào một sợi dây. Gã rút gậy sắt ra. Trong ánh sáng của ngọn đèn dầu, gã nhìn cái đầu đã bị đập dẹp ra của khúc gậy và tỏ vẻ hài lòng.
Nó sẽ giúp gã dễ dàng cạy nắp quan tài.
Hắn quan sát nắp chiếc quan tài. Kẽ hở của nó và phần bên dưới trông rất rõ. Đây là nơi phải thúc gậy sắt vào. Gã thử một vài lần và sung sướng vô cùng khi nghe tiếng gãy nho nhỏ, cho biết gỗ ở một vài nơi đã bung ra. Hắn cầm gậy sắt bằng cả hai bàn tay,dồn sức lực và cuối cùng cạy được cái nắp hòm bật ra không quá khó khăn.
Tất cả đều trôi chảy.
Gã đổ mồ hôi vì làm việc thật tập trung và cái mùi chua chua của gã trộn với mùi máu chảy ra từ vết thương rất sâu trên ngực người lính đã chết. Máu đã tạo thành một vũng rất rộng quanh anh ta, nó trở thành nơi mời gọi những con ruồi béo phì đang hả hê kéo tới.
Gã đàn ông nghiến răng làm việc tiếp, gã buộc miệng nguyền rủa khi thấy nắp hòm dù đã nhích ra một chút, nhưng cúng hơn hắn tưởng.
Cuối cùng, việc cũng hoàn tất. Gã cầm vào nắp hòm bằng cả hai tay và có thể nâng nó lên cao.
Nắp hòm từ từ mở ra.
Thành công!
Gã không nhìn được nhiều. Gã thở hổn hển không rõ vì hồi hộp hay vì mệt, gã bước sang bên và cầm cây đèn dầu lên. Gã đưa cây đèn dầu lại gần cái hòm, di chuyển nó dọc theo phần cuối hòm.
Ánh sáng tỏa xuống dưới, và chiếu lên một hình người. Đầu tiên, nó khiến Malraux không khỏi bị sốc.
Đó chưa hoàn toàn là một bộ xương người. Có những chỗ phơi ra xương trần nhợt nhạt trắng xám, như thể vừa được kỳ cọ, đánh bóng kỹ càng. Nhưng một số chỗ khác vẫn còn thịt và những mẩu da sót lại, bám vào xương, đặc biệt ở phần ngang vai và phần đùi trông cực kỳ ghê rợn.
Đã vậy cả những phần thịt này cũng đã thối rửa ra, ngả một màu xám như tro và chắc chắn chẳng bao lâu nữa cũng sẽ rụng hết ra.
Gã không quan tâm đến điều đó. Thứ duy nhất mà Malraux để ý tới là cái dáng người chưa mục hết này đeo vật gì bên mình.
Dây thắt lưng chưa bị mục. Nó được làm bằng da, và ở phía bên phải nó, Malraux nhìn thấy một chiếc bao đựng dao găm. Phần dưới dao đang thò ra bên ống xương nhợt nhạt. Gã không quan tâm đến bao da. Điều duy nhất quan trọng là cái gì đang thò cán ra khỏi cái bao này.
Đó là một con dao găm, cán của nó được quấn rất kỹ bằng một loại băng vải.
Khi Malraux đưa tay đến gần con dao, những ngón tay của gã run rất mạnh. Cổ họng gã nghẹn thắt, hai con mắt sáng rực lên như trong cơn sốt. Đã biết bao nhiêu năm nay gã chờ đợi giây phút này. Ước mơ quá lớn, không thể không hồi hộp.
Đây là mục tiêu tối thượng cho mọi mong ước của gã!
Gã đàn ông sờ vào cán dao. Băng vải quấn quanh cán gây cảm giác mềm mại. Nó uốn tựa vào lòng bàn tay gã, như thể nó được làm riêng cho gã.
Một nụ cười hiện lên trên đôi môi khô cứng và rạn nứt. Bằng một cử chỉ vội vàng, gã đàn ông rút món vũ khí ra khỏi cái bao đựng bằng da đã rạn.
Gã quan sát lưỡi dao. Trong ánh sáng của ngọn đèn dầu, nó gây ấn tượng như đang được phủ một lớp mỏng bằng máu. Lưỡi dao như đang sống, đang chuyển động, đang gửi thông điệp. Malraux lấy hơi thật sâu, xoay lưỡi dao rồi ép nó một thoáng lên môi mình.
Gã thấy thật dễ chịu, khi cảm nhận lưỡi thép đó, như thể nó đang thổ sức sống vào người gã.
Malraux lại hít một hơi thật sâu.
Gã hoàn toàn không đếm xỉa đến những rương đựng đồ và những chiếc hòm khác nằm trong phòng. Dĩ nhiên gã có thể dễ dàng mở một trong những chiếc hòm đó ra và vơ vét không biết bao nhiêu đồ quý giá nằm trong, nhưng chuyện đó cũng sẽ cướp đi của hắn những phút giây quí báu. Gã đàn ông đang muốn biến mất càng nhanh càng tốt. Gã muốn lên trên boong tàu, nhảy xuống nước và bơi vào bờ. Ngay cả khi bọn người kia có phát hiện ra gã, chuyện chắc chắn sẽ xảy ra, thì cũng sẽ không một kẻ nào có thể truy đuổi được gã. Chúng không thể làm điều đó được. Chúng phải đến Marseile càng nhanh càng tốt.
Gã cất con dao găm bên dưới cái quần cũ kỹ đã có giấu sẵn một bao dao, được làm rất tỉ mỉ cho chính món vũ khí này.
Malraux tỏ vẻ hài lòng.Việc còn lại của gã bây giờ chỉ là biến mất cho thật nhanh. Nhưng gã cũng phải cẩn thận, không được tỏ ra quá vội vàng. Đừng khinh suất! Nếu không mọi việc sẽ thành uổng phí.
Gã xoay người ra khỏi hòm chứa đồ.
Con tàu vẫn tiếp tục phăng phăng đi theo hướng định trước. Nó lướt trên đầu những con sóng rất dài, chuyển động nhẹ nhàng như đã biến thành một con chim.
Cũng có thể Malraux có cảm giác như vậy, bởi gã đang tiến gần thành công. Cảm giác đến mục tiêu mọi ước mơ của mình thật tuyệt vời, chỉ còn vài bước chân nữa là gã sẽ đến với chiến thắng chung cuộc.
Những con ruồi nặng nề bóng nhảy vo ve quanh xác chết. Chúng đậu cả xuống vũng máu, bây giờ đã được phủ một lớp màu thẫm bên trên. Gã đàn ông xoay người sang trái. Một tay của hắn đang cầm cây đèn dầu. Cây đèn chuyển động theo những nhịp chân hắn. Nó ném những vệt tối như những con ma u ám lên tường và xuống nền phòng, những con ma thật thích hợp với khung cảnh chết ***c xung quanh.
Người đang ngất nằm gần cửa ra vào. Malraux cân nhắc xem có nên giết cả người lính canh này hay không, nhưng rồi hắn bỏ ý định. Chẳng bao lâu người ta cũng sẽ biết ai là kẻ ra tay giết ***c và cướp đồ vật ở đây. Chẳng cần phải để lại thêm một xác chết thứ hai.
Gã bước qua thân người bất động. Đúng lúc muốn bước tiếp tới cửa dẫn ra ngoài thì gã nghe thấy một tiếng động thật khẽ. Malraux quay người lại. Nhưng…
Muộn rồi!
Một bàn tay đã nhanh như chớp tóm lấy cổ chân gã. Tóm rất mạnh và rất chặt, khiến Malraux kêu lên. Không bước tiếp được, gã ngã người sang bên, chiếc đèn rơi xuống nền phòng, vỡ toang.
Dầu chảy ra ngoài.
Những lưỡi lửa xuất hiện, tham lam như những ngón tay kẻ cắp. Lửa phụt thẳng vào vũng dầu.
Có tiếng gào nhẹ.
Thế rồi đám lửa bùng ra, bốc lên cao. Nó phun ra phì phì, nó nhuộm một màu đỏ ***i, bí hiểm và ma quái. Malraux nhìn thấy người vừa ngất nay đang chuyển động mà không buông chân hắn ra. Anh ta muốn bám vào hắn, lấy chỗ kéo để đẩy người lên. Anh ta vẫn còn chưa hết choáng váng, ánh mắt còn đờ đẫn, miệng và mặt nhăn nhúm.
Tình thế báo hiệu một kết cục u ám.
Ngọn lửa mỗi lúc một ngoạm thêm nguyên liệu. Chỉ còn vài phút nữa thôi, nó sẽ lan rộng qua xung quanh. Ngay bây giờ đã có một luồng khói gay gắt bốc lên cao, khiến đôi mắt của người lính gác chảy nước.
Malraux không dùng cây dao găm, mà nắm bàn tay trái lại thành quả đấm. Gã đàn ông ra đòn vô cùng tàn bạo.
Nắm đấm bay thẳng vào đầu người đối diện. Lần này, gã đấm ba cú liên tiếp. Lực bám vào cổ chân hắn lỏng ra. Thế rồi bàn tay trượt xuống, người lính gác lại ngã đập xuống mặt phòng, lăn người một vài vòng nhảy nhót trên nền gỗ.
Malraux đứng bật dậy.
Gã thừa hiểu, gã không còn thời gian để dập tắt đám cháy. Ngọn lửa có quá đủ con mồi quanh đây và chẳng bao lâu, nó sẽ biến cả con tàu thành địa ngục lửa.
Cho tới lúc đó, gã phải rời khỏi boong tàu.
Họ ngập ngụa, mắt trào nước, gã đàn ông leo ra khỏi phòng. Gã đi lảo đảo trên hành lang, thỉnh thoảng đập người vào vách tường, giơ tay sờ cán dao găm và vui vẻ khi biết rằng món vũ khí vẫn còn nguyên vẹn bên người hắn. Chắc chắn nó sẽ bảo vệ cho hắn.
Gã phải lên được boong tàu càng nhanh càng tốt, trước khi có người nhận ra đám cháy. Làn khói gay gắt bây giờ đã cuộn sang nơi khác. Gã đàn ông không nghĩ đến chuyện đánh thức những người đang ngủ. Gã để mặc kệ cho họ xoay trở với tình huống bất ngờ.
Malraux lao người qua một cánh cửa thấp. Đi đến boong, gã cúi xuống, ẩn đằng sau những cuộn dây lớn. Xung quanh hắn không có ai. Gã nghe loáng thoáng những tiếng người từ xa, trên đầu hắn là tiếng phần phật của cánh buồn trong gió. Gã cũng nghe tiếng nước đang chảy quanh mạn tàu, nó cho gã niềm hy vọng và gã lén về hướng đuôi tàu.
Thế rồi gã trèo lên được mỏm gỗ cuối đuôi tàu. Đứng trên đó và nghe thấy một tiếng kêu lảnh lót, biểu lộ tất cả những nỗi kinh hoàng khi con tàu bị cháy.
Lửa…! Cháy! Lửa!
Có ai đó giật chuông báo động.
Những tiếng kêu của nó vang lên đồng thời với bước nhảy gọn gàng của Malraux xuống dưới sâu, xuống dưới mặt nước màu xanh xám, xuống với luồng nước cuồn cuộn sáng.
Chỉ một tích tắc sau, luồng nước nuốt chửng lấy hắn. Chính xác hơn là chở che cho hắn trong vòng tay mênh mông.
Nếu có thể, gã đàn ông bây giờ sẽ cười thật lớn. Nhưng vì đang ở dưới nước, gã chỉ nghiến hai hàm răng, lòng vô cùng sung sướng.
Thật sâu, biển sâu nhưng gã có cảm giác êm đềm lạ! Gã lặn xuống dưới và bơi với những cánh tay quạt rất mạnh về hướng Bắc, về hướng bờ biển của nước Pháp. Gã phải lên được bờ biển đó và phải bước lên bờ trong một đoạn vắng người. Những đoạn vắng người như thế ở đầu này rất nhiều. Malraux không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Thiếu không khí, gã đàn ông trồi lên trên. Gã lấy hơi, tràn đầy hai lá phổi, và không quay nhìn lại, bởi mỗi giây đồng hồ bây giờ đều vô giá. Gã biết mỗi con tàu khi chìm xuống đều gây ra những vũng nước xoáy rất mạnh, kéo xuống dưới sâu tất cả những gì đang tình cờ có mặt quanh nó. Lúc đó thì kể cả những người bơi giỏi nhất cũng không còn cơ hội.
Gã bơi, rồi lại ngẩng lên lấy hơi, rồi lại tiếp tục bơi, và tới một lúc nào đó, Malraux dừng lại ở mặt nước bên trên.
Lúc bấy giờ gã mới quay đầu nhìn lại.
Nằm dài theo dọc luồng nước, gã nhìn về hướng sau.
Gã nhìn thấy chiếc tàu buồm.
Trên đầu nó bây giờ là một đám mây khói đặc kịt, tỏa rộng ra xung quanh. Trong lòng đám mây nhảy nhót vô vàn những lưỡi màu đỏ thẫm đang trèo lên cánh buồm. Con tàu bây giờ đã nghiêng về hướng sau và sang bên trái. Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ chìm xuống nước.
Gã đàn ông bật cười.
Gã cười như chưa bao giờ cười trong cuộc đời của gã, cho tới khi một làn sóng chạy ngang phủ xuống đầu gã, bóp nghẹt tiếng cười. Gã đàn ông bơi tiếp.
Bây giờ thì gã biết rõ là gã sẽ đến được mục tiêu của mình.
Gã sẽ đến được bờ biển và chẳng bao lâu nữa gã sẽ thuộc vào một trong những kẻ quyền thế của đất nước này.
Con dao găm sẽ mang lại cho gã quyền lực đó…
nvdtdnguyen
21-02-2007, 07:44 PM
Chương 3

Malraux quả đã bơi được vào đất liền và đi lên bờ. Đối với gã, đó là một ngày tuyệt vời. Sóng biển gần bờ không đến nỗi quá mạnh, gã có thể bơi vòng tránh những dãy núi đá có thể gây nguy hiểm. Tới nơi, gã nằm thật lâu trên nền cát mềm mại cho đến khi mặt trời ngả đầu về hướng Tây và cuối cùng, biến mất trong mặt nước biển.
Malraux không biết chính xác gã đã bơi cụ thể vào địa phương nào. Nhưng gã biết, dọc khúc bờ biển này của nước Pháp có rất nhiều khu dân cư và nhiều làng chài nho nhỏ. Ở đó gã cũng sẽ kiếm được chút gì để ăn. Gã đàn ông nghĩ như vậy và lên đường. Không khí không còn quá nóng như lúc ban trưa.
Gã tiến tương đối nhanh. Những vách núi đá vẫn còn tỏa ra một chút hơi nóng mà chúng thu lượm được trong ngày, đã khiến cho cơn khát trong hắn dâng lên. Ở đây không có nguồn nước, kể cả mảng thực vật cũng sơ sài. Nhưng đi thêm chút nữa, gã thấy hiện ra những túp lều, những ngôi nhà đầu tiên. Một khu dân cư nho nhỏ, nằm lọt thỏm trong một cái vịnh. Nơi sinh sống của dân đánh cá.
Gã lẻn vào ngôi làng.
Gã tìm được nước. Gã nhìn thấy một cái giếng bên cạnh một ngôi nhà. Trên thành giếng có để một cái gàu bằng gỗ. Gàu đầy nước, gã đàn ông cúi xuống, uống thỏa thê.
Có ai đó bước tới.
Đó là một người đàn ông già nua, dáng điệu hiền lành. Ông ta gật đầu với gã.
- Anh từ xa tới đây phải không?
- Vâng.
Người đàn ông ấy quan sát hắn bằng vẻ kiểm tra, nhưng không nói gì. Malraux không thích bị nhìn bằng ánh mắt như vậy. Hắn đã muốn quay lưng đi thì ông già lên tiếng mời hắn vào nhà ông.
- Ông có phải là dân đánh cá không? – Malraux hỏi cố giữ lễ phép.
- Có thể nói như vậy.
- Tôi vào nhà ông để làm gì?
- Anh không muốn ăn gì hả?
- Có chứ. – Gã đáp vẻ mừng rỡ, bởi vì gã đang đói.
- Thế thì vào đây.
Ngôi nhà được xây bằng những hòn đá sáng màu. Nó chật chội và tối tăm, bởi những khoảng hở nhỏ trên tường chẳng có ánh sáng lọt vào. Malraux thấy rất dễ chịu với không khí lành lạnh trong nhà, cũng như với luồng sáng tỏa ra từ những cây nến đặt trong một chiếc đĩa gỗ để giữa bàn.
Ông già ngồi đối diện với hắn và nhăn một vài lần sóng mũi cong cong của mình.
- Anh bốc lên mùi muối và nước, mặc dù người anh đang khô. Anh bơi từ biển vào đây hả?
- Vâng.
- Anh bơi rất lâu phải không?
- Vâng. – Hắn luôn muốn tiết kiệm lời nói.
- Tôi đã nhìn thấy khói bốc lên từ biển khi tôi đứng trên một vách đá. Có phải thuyền của anh bị cháy không?
- Vâng.
Người đàn ông tóc bạc mỉm cười, đứng dậy và bước đến gần một chiếc giá bằng gỗ.
- Anh muốn ăn phải không?
- Ông có gì nào?
- Cá. Cá khô. Được phơi giòn dưới ánh nắng mặt trời. Tôi cũng có bánh mì và rượu vang.
- Vâng, thế thì tốt.
Người đàn ông già nua phục vụ hắn. Ông ta làm điều đó với một vẻ tự nhiên khiến Malraux phải kinh ngạc. Vì không quen với kiểu hiếu khách như vậy, gã đàn ông đâm nghi ngờ và cẩn trọng. Hắn không muốn bị rơi vào một sự ngạc nhiên độc ác.
- Chúc anh ăn ngon miệng!
- Cảm ơn.
Cá rất ngon, không mặn quá, và rượu vang thì hơi lành lạnh, khiến cổ họng và dạ dày Malraux mừng vui. Gã mừng vui vì mọi thứ đã nằm lại sau lưng, nhưng gã không chịu được ánh mắt quan sát của ông già. Khuôn mặt ông đang nhảy nhót và méo mó một cách lạ kỳ đằng sau ánh nến.
Gã vẫn chưa tin tưởng ông già.
- Cho tôi thêm chút nước được không?
- Cả rượu vang nữa chứ.
- Không, chỉ nước thôi.
Ông già gật đầu, đứng dậy và bước ra hướng ngoài. Malraux không nghe thấy ông ta làm gì ngoài đó. Chỉ tới khi nghe tiếng rít của dây thừng bên giếng và tiếng cọt kẹt của gỗ vang lên, gã mới thở ra hài lòng. Với một can đầy nước trong tay, người đàn ông tóc trắng quay trở lại.
- Ông sống một mình sao? – Malraux hỏi.
- Chẳng phải bao giờ cũng một mình.
- Thế còn ai sống trong nhà ông nữa?
- Lần thì người này, lần thì người nọ. – Ông ta đổ nước từ can vào cốc.
Malraux uống. Nước lạnh làm mát từng tế bào cơ thể khiến hắn tỉnh cả người.
- Nhưng ông không phải là dân đánh cá?
- Tại sao không?
- Tôi quen nhiều dân chài. Ở ngoài kia đã bắt đầu tối rồi. Bây giờ là lúc người ta sửa soạn lưới.
- Tôi già quá rồi.
Ông già lại ngồi xuống, và nét mặt của ông nhợt nhạt đằng sau ánh nến. Khi đặt thêm một câu hỏi nữa, ông chủ nhà khiến khách suýt nghẹn.
- Anh có phải dân Templer không? Anh là một người trong số họ hả?
Malraux im lặng. Gã uống và ăn con cá cuối cùng. Ông chủ nhà để cho hắn thời gian suy nghĩ, rồi sau đó mới nhắc lại câu hỏi, tới lúc đó Malraux mới phản ứng.
- Tại sao tôi phải là một người của dòng đạo Templer?
- Bây giờ người ta rất hay gặp họ. Họ đang bị truy đuổi như những con thú. Người ta đang bám sát lấy chân họ. Cả nhà thờ Thiên Chúa giáo, kể cả mật thám của nhà vua cho đến Giáo hoàng cũng đã đưa ra những đội quân riêng. Người ta sẽ tóm lấy họ, sẽ ném họ vào nhà tù và tra tấn.
- Tôi biết.
- Anh có phải là người của dòng đạo Templer không? – Ông già cương quyết hỏi. Một phần những từ ngữ của ông có vẻ như đang bị những lưỡi lửa nến nuốt chửng.
Malraux muốn nhận ra ánh mắt rình mò hiểm độc trong giọng nói đó, nhưng gã không tìm được.
- Ông sẽ làm gì nếu gặp một người của dòng đạo Templer?
- Tôi chưa rõ.
- Ông có giao nộp anh ta không?
- Không! – Ông già lắc đầu. – Đầu tiên tôi sẽ thử tìm hiểu. Nếu anh ta là một người tốt thì tôi sẽ che giấu cho anh ta. Nếu anh ta là một con quỷ thì tôi sẽ thả anh ta ra cho bọn người truy đuổi. Anh thấy đấy, tôi là người trung thực. Giờ thì anh có thể nói ra sự thật.
Malraux nheo hai con mắt lại.
- Đối với ông cái gì là tốt, cái gì là xấu? Ông làm cách nào mà biết được?
- Một số người vốn theo đạo Templer nay đã biến đổi niềm tin vào đạo giáo của họ. Như thế là không tốt, bởi bây giờ thì họ phục vụ cho quỷ dữ. Cũng có thể họ không còn cơ hội khác, bởi họ bị bỏ rơi. Điều đó có thể xảy ra. Người ta luôn phải tính đến trường hợp đó, đúng không?
- Tôi không phải là người của dòng đạo Templer. – Gã quyết định phải nói như vậy. – Thế nhưng ông biết nhiều về họ ư?
- Đúng, những ai đã trở nên già nua như tôi, người đó đã từng trải qua rất nhiều sự kiện. Người đó nhìn thấy nhiều thứ và họ thường chẳng được những người trẻ tuổi hơn cao trọng. Thế nhưng những người tuổi trẻ tuổi đó quên rằng kể cả người già cũng có mắt để nhìn và tai để nghe. Và cùng với tuổi già, họ có một sự khôn ngoan nhất định mà những người trẻ tuổi không có được. Tất cả những ai cười giễu một người già nên nghĩ tới những điều đó. Tôi biết rồi thế nào cũng có chuyện xảy ra, để thống nhất, họ đã từ lâu chia ra làm hai phe. Nhưng tôi cũng biết người ta không thể hủy diệt được họ, bởi họ sẽ luôn luôn tìm cách tụ hội lại với nhau, tạo thành một cách liên hợp mạnh mẽ.
- Ông có phải là phù thủy không?
Ông già lắc đầu.
- Tôi chỉ là một người khôn ngoan, anh bạn trẻ ạ. Chỉ khôn ngoan thôi…
Đột ngột, Malraux cảm thấy bối rối và kinh hãi trước người đàn ông. Gã không biết gã phải xử trí như thế nào. Gã phải ở lại đây hoặc là biến đi? Phải đấm gục ông già xuống, phải giết ông ta để xóa đi một dấu vết? Hay là gã cứ đơn giản để sự kiện xảy ra và tiếp tục thử thách ông già thêm một lúc nữa?
- Những ý nghĩ anh đang có trong đầu là không tốt đâu, anh bạn trẻ. Hãy nghe lời tôi, chúng không mang lại lợi ích gì.
- Ông biết thế thật sao? – Gã gần như rúng động.
- Đúng, sự khôn ngoan mách bảo cho tôi như vậy. – Ông già vẫn cứ giữ cái giọng đều đều.
- Thế thì nói cho tôi biết, tôi là ai.
- Anh đang trên đường chạy trốn. Anh đã làm một điều gì đó, có thể là một chuyện hết sức quan trọng và quyết định đối với khoảng đời trước mắt của anh.
- Tôi đã làm gì?
- Nếu anh không tự kể cho tôi, thì tôi cũng không biết đâu. Tôi không phải là phù thủy.
Malraux gật đầu. Thế rồi gã mỉm cười, cân nhắc, và cuối cùng ra quyết định. Gã đưa bàn tay phải lên cái cán được quấn vải của con dao găm, nhưng chưa rút hẳn vũ khi ra khỏi bao. Thay vào đó gã nói:
- Bây giờ tôi sẽ chỉ cho ông một vật điều mà ông nên coi là một bằng chứng của lòng tin. Nếu ông thật sự khôn ngoan và biết rất nhiều, chắc chắn ông đã nghe nói đến chuyện này rồi. Đúng, tôi tin chắc như vậy.
Trước khi ông già kịp phản ứng, Malraux đã rút cây dao găm ra và đặt nó trên bàn.
Bây giờ nó nằm đó. Được ôm ấp bởi ánh sáng của những ngọn nến, khiến cho những đường nét của nó mềm ra, cứ như thể nó có thể tan chảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng nó vẫn nằm lại và ông già bị lay động mạnh mẽ đến mức ông bất giác lắc đầu. Ông giơ hai cánh tay lên, áp chặt hai bàn tay vào hai bên má và những thớ thịt phủ làn râu màu trắng của ông giần giật. Đồng thời, răng ông đánh lập cập vào nhau. Cơn ớn lạnh tóm chặt lấy ông, như bị bao vây bởi một nhà giam và Malraux e rằng hắn vừa phạm một sai lầm khủng khiếp.
- Ông sao thế?
Ông già không nghe thấy lời hắn.
- Trả lời đi! – Hắn nói to.
- Không, không…
Malraux không buông tha.
- Ông biết món vũ khí này, đúng không? Chính ông đã biết nó. Chắc ông đã nhìn thấy nó một lần, ông bạn. Ông biết nó trong hoàn cảnh nào?
Phải qua một khoảng thời gian khá lâu, người đàn ông già nua mới cất lên thành tiếng. Ông ta thở nặng nề. hai con mắt anh ánh nước. Vội vàng, ông uống một vài ngụm rượu vang. Thế rồi ông hạ đầu xuống, thì thào trả lời:
- Nó là một công cụ của quỷ Satan, một dấu hiệu độc ác. Anh đã mang con quỷ vào nhà tôi. Anh đã gọi hồn nó dậy. Anh là một tay chân của địa ngục!
May mắn làm sao, ông già chỉ lào thào, thì thầm, bởi Malraux không muốn bất kỳ một ai khác nghe thấy những từ ngữ đó. Cố gắng lắm gã mới giữ được bình tĩnh, ngồi im và chỉ nở một nụ cười hiểm ác trước khi cất tiếng nói.
- Tôi vẫn chưa hiểu nó theo phương diện này. Tôi chỉ biết, con dao xuất xứ từ vương quốc của đạo Hồi. Nó có nguồn gốc từ châu Á…
- Con dao này là của hắn!
- Ai kia! – Gương mặt hắn giãn ra.
- Của quốc vương Harun El Basra. Nhóm đạo Templer đã ăn cắp nó. Nhóm đạo Templer muốn giữ con dao này. Họ biết rõ con dao này có sức mạnh như thế nào. Họ đã giấu con dao này trong quan tài của một người đã chết, đúng không?
- Ông biết nhiều đấy.
- Đúng, tôi biết nhiều. Tôi đã nghe một nhóm người nói chuyện về nó, nhưng đó là nhóm Templer thứ hai, những kẻ bây giờ quay sang phục vụ cho quỷ sứ, bọn tay chân của quỷ Satan bây giờ muốn chiếm lấy con dao, bởi con dao này bị quỷ ám. Nó là cái Ác. Người mang nó cũng sẽ là người ác. Anh ta chỉ nghĩ rằng anh ta đã điều khiển được nó, và con dao sẽ nghe lời anh ta, nhưng đó là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng. Công cụ của quỷ dữ không bao giờ nghe lời một con người. Công cụ của quỷ dữ được làm ra cho quỷ dữ, chứ chẳng phải cho con người như chúng ta. Nó sẽ mang lại thảm họa cho chúng ta. – Ông già nói tiếp, giọng thống thiết. – Nó sẽ không mang lại may mắn cho anh đâu. Vì thế hãy nghe lời tôi khuyên. Cầm lấy nó, bước ra những vách núi ở ngoài kia, và ném nó xuống nước, ném nó xuống chỗ biển sâu nhất.
Malraux mỉm cười. Ông già muốn dùng những câu nói để cảnh báo, nhưng chỉ đạt được ở gã đàn ông này một hiệu quả ngược lại. Bây giờ gã mới thật sự quý mến món vũ khí vừa ăn cắp được. Dĩ nhiên, gã hiểu là tóm được con dao trong tay là gã sẽ đạt tới một cấp bậc quyền lực nhất định và nôn nóng muốn thử thách quyền lực đó. Gã tiếp tục mỉm cười, chuyển động bàn tay cho tới khi đặt bên mép bàn, từ từ đưa nó về hướng con dao. Bàn tay bò tới như một con rắn đang dần dần rút ngắn khoảng cách chỗ con mồi.
Ông già không nhìn thấy điều đó. Ông đang bị sốc. Ông ngồi cúi người về phía trước, chống khuỷu tay lên mặt bàn và đưa cả hai tay che mặt.
Malraux vẫn tiếp tục mỉm cười. Gã bây giờ trông giống một con quỷ hơn là con người.
Con dao găm là điều quan trọng.
Bây giờ càng quan trọng hơn lúc nào hết.
Hắn trườn bàn tay tới và đột ngột dừng lại. Nó nằm im lặng ở đó, như những móng vuốt nhợt nhạt của một người đã chết, bởi hắn cảm nhận rằng hắn không cần phải đẩy tay tới nữa. Hắn đã chạm vào vũ khí.
Malraux có cảm giác như hắn và con dao găm bây giờ đã được nối với nhau bằng một cây cầu. Một cây cầu tinh thần, mạnh mẽ đến mức độ không một kẻ nào có thể chia cắt.
Hắn và con dao găm thuộc về nhau. Ý nghĩ đó quay cuồng trong đầu óc gã đàn ông. Gã có cảm giác như một thế lực xa lạ và hoàn toàn khác biệt đang để lại cho hắn một thông điệp, nhưng thông điệp đó chưa đến được với đầu óc hắn, bởi còn quá nhiều vật trở ngại trên đường đi, những trở ngại phải được dọn dẹp.
Một khi những chướng ngại vật này bị tiêu diệt, sẽ không kẻ nào, không vật gì ngăn cản được hắn nữa.
- Mi thuộc về ta. – Gã thì thào, ông già không nghe thấy vì tiếng nức nở của ông đang to hơn giọng gã đàn ông nói. – Mi thuộc về ta, về ta chứ không phải một kẻ nào khác. Ta đã đi kiếm mi, ta đã tìm thấy mi, ta đã giải thoát cho mi và ta muốn mi chỉ nghe một mình mệnh lệnh của ta, chỉ nghe theo một mình ta. Chừng nào ta còn sống, chừng nào ta còn đủ sức mạnh để cầm mi lên, cả hai chúng ta sẽ là những chiến hữu của nhau. Ta muốn mi dẫn đường cho ta, cũng như ta muốn mi để ta dẫn đường mi. Ta muốn chúng ta tạo thành một đơn vị thống nhất, bởi chúng ta thuộc về nhau. Hai chúng ta đã đi tìm nhau, và đã tìm thấy nhau. Mi là cứu tinh của ta, và ta đã là cứu tinh của mi. – Gã đàn ông hơi cúi đầu xuống, nhìn chăm chăm vào mũi dao. Mũi dao có vẻ như biến dạng dưới ánh nến và ngày càng gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là nó có thể chảy ra bất cứ lúc nào.
Malraux mỉm cười. Gã chỉ nhìn thấy một con dao găm đó, gã tập trung toàn nội lực vào nó và đồng thời vào một yếu tố khác.
Vào hai cái chết, vào việc giết người!
Cả hai luồng điện đó gặp nhau, bổ sung lẫn cho nhau và mạnh mẽ hơn hẳn trong lưỡi dao có pháp thuật, giải tỏa cho toàn bộ sức mạnh của nó bùng nổ ra ngoài.
Con dao chuyển động!
Người ngoài nhìn không ai hiểu được, bởi nó xoay mặc dù không có bàn tay nào chạm vào nó.
Chỉ qua sức mạnh tinh thần và sức mạnh của chính nó. Bởi nó cũng chính là chủ nhân.
Malraux nghe thấy tiếng gã cười. Không phải tiếng cười vui vẻ và tự do, mà vất vả và ngạc nhiên. Những cảnh tượng đầu tiên xuất hiện trước con mắt tinh thần của gã. Gã có cảm giác như mình là một siêu nhân đang ném được một cái nhìn vào tương lai và biết được quyền lực của bản thân.
Gã cùng món vũ khí của quỷ Satan.
Gã và cái Ác!
Những bóng tối của ánh nến nhảy nhót trong mắt gã. Trông Malraux thật độc ác, như một con quỷ đã nhập vào hình người, đang ngồi bên một cái bàn bình thường.
Gã ra lệnh đầu tiên.
- Lên cao!
Con dao phản ứng. Nó đột ngột bay dọc mặt bàn và dừng lại ở một độ cao ngang với khuôn mặt của người đàn ông già nua. Khuôn mặt đang được che sau hay bàn tay.
Con dao xoay tròn.
Nó xoay từ từ, hầu như đang ra vẻ thích thú. Có lúc nó hướng mũi dao về hướng Malraux, rồi sau đó lại xoay về hướng gã đàn ông cái cán được quấn vải. Cái cán đang kêu kên khe khẽ, như thể làn chất liệu quấn cán đang tung ra những tia lửa li ti.
Một điều kỳ diệu.
Một pháp thuật độc ác, quỷ quái, và Malraux cảm giác hắn là người bất khả chiến bại. Con dao găm này là tất cả những gì mà gã mong ước trên đời. Gã hoàn toàn không thể tưởng tượng được, đấy là một kẻ hầu người hạ tốt nhất, chung thủy nhất. Nó đơn giản có một không hai, nó tuyệt vời, nó sẽ nghe lời gã. Nó chỉ nghe theo những dòng suy nghĩ của gã và làm tất cả những gì mà gã yêu cầu.
Gã sẽ chỉ cho kẻ thù của gã biết, ai là kẻ mạnh hơn. Nhưng kẻ thù của gã hiện thời đang ở đâu?
Malraux đã biết câu trả lời, và nụ cười quái gở trên gương mặt của gã mỗi lúc một rộng hơn, một quỷ quái hơn.
Cho tới nay, gã chỉ nói chuyện lý thuyết với mình. Thế nhưng cơ hội thí nghiệm rõ ràng đang nằm trong tay gã. Gã đưa ánh mắt nhìn về người đàn ông già nua. Ông ta đã đưa gã vào nhà của mình, ông ta đã tiếp đãi gã như một vị khách, nhưng ông ta đứng về phía bên kia.
Đó là điều ngu xuẩn nhất của ông ta!
Con dao vẫn xoay tròn trong không khí. Malraux muốn nó dừng lại, gã ra lệnh đanh gọn:
- Thôi.
Món vũ khí tuân lời. Nó xoay một lần nữa, rồi dừng lại, chỉ vào cổ của người đàn ông già nua, một cần cổ được phủ bằng một lớp da mỏng, nhăn nheo, rám nắng. Cái cần cổ giật lên giật xuống cùng huyết hầu theo mỗi lần nuốt.
- Này, ông già… - Hắn cất giọng.
Ông ta không chịu nghe thấy.
Malraux cảm nhận rõ nỗi giận dữ và căm hờn ông già lớn lên trong tâm khảm hắn. Việc ông ta không nhìn gã cũng có thể coi là biểu thị sự khinh thường. Trước đây một vài giờ đồng hồ thì gã còn chịu đựng được, nhưng bây giờ thì không.
Không bao giờ nữa…
Không đời nào!
Và gã ra lệnh cho con dao găm.
- Giết!
Món vũ khí vẫn trực chỉ cái đầu nhọn của nó vào cần cổ nhăn nheo của ông già. Thế rồi nó chồm về phía trước. Malraux nghe một tiếng gừ khe khẽ khi mũi dao xé gió lướt tới. Một tích tắc sau đó, con dao đã tìm thấy mục đích, và cắm phập vào cổ họng của người đàn ông già nua.
Ông già thậm chí không kịp kêu lên một tiếng. Máu chảy tràn vào khoang miệng ông, xuất hiện những bóng tối trước mắt ông, kéo ông vào cõi chết.
Malraux ngồi trên ghế và quan sát toàn bộ cảnh tượng đó với mối quan tâm lạnh lùng. Chỉ tới khi suy luận ra những tương lai nào đang đứng trước mặt gã, Malraux mới cảm thấy sống lưng gã rởn nhẹ. Một tương lai bóng loáng, được đúc bằng vàng. Gã có thể nhảy lên mà hò reo vì mừng rỡ, nội tạng của hắn bây giờ đang chìm ngập trong những lưỡi lử hả hê.
Người đàn ông già nua ngã xuống đất và ngã ngửa.
Tiếng động kéo tên giết người ra khỏi trạng thái đờ đẫn. Gã đàn ông quỷ ám đứng dậy, đi vòng quanh bàn và nhìn xuống người đã chết.
Khi rút con dao găm ra khỏi vết thương, Malraux khích khích cười…

Chương 4

Malraux ra khỏi ngôi nhà của người đàn ông. Gã đứng trong bóng tối và tận hưởng màn trời đêm lành lạnh cùng ngọn gió đang vuốt ve mặt hắn.
Chẳng phải chỉ đêm nay thuộc về hắn, cả tương lai cũng là của hắn. Malraux bây giờ đã nắm trong tay một quyền lực và nếu hắn biết khéo léo tận dụng nó, hắn không phải chỉ có thể nhân đôi nó lên, hắn có thể nhân mười nó lên, nhân trăm nó lên. Những suy nghĩ quay cuồng trong đầu óc và gã đàn ông như sa vào một cơn say, tưởng tượng như gã đang bay lên khỏi mặt đất, bay qua những vách núi đá kia, bay ra tới biển.
Tuyệt vời! Tuyệt vời! Tuyệt vời!
Gã rời ngôi làng. Tới một lúc nào đó người ta sẽ tìm thấy xác ông già và hỏi kẻ nào là thủ phạm? Nhưng điều đó không khiến gã băn khoăn, bởi không một ai nhìn thấy gã. Không một câu trả lời nào đúng cả.
Sau bữa ăn, gã cảm thấy mình đã khỏe trở lại, bất chấp những cố gắng của ngày hôm trước. Gã thấy mình đủ sức để đi bộ tới một khu dân cư lớn hơn, nơi gã có thể an tâm trà trộn vào dân chúng trong thời gian đầu. Để tồn tại, hắn cần có tiền hay vàng. Gã sẽ có cả hai thứ đó dưới sự trợ giúp của con dao găm.
Con dao bây giờ là bạn gã, là đối tác, và trên con đường đi qua bóng đêm, gã vừa đi vừa luyện tập với nó.
Lần này con mồi của chúng không phải là người nữa, mà là những con thú không kịp tránh. Gã truy lùng những con thỏ, gã giết rắn, điều này khiến gã vô cùng vui mừng, bởi gã thấy con dao của gã nhiều khi chuyển động còn nhanh hôn cả loài bò sát.
Màn đêm khiến gã hứng thú.
Cứ mỗi khi đâm chết được một con thỏ, gã lại sung sướng hít vào người hơi máu nóng. Gã biết rất rõ, cái mùi này sẽ còn bám theo gã suốt đời. Năm này qua năm khác, nạn nhân này qua nạn nhân khác…
Đến khi bình minh thức dậy thì gã phải trốn tránh, bởi có một nhóm lính dạo quanh khu vực. Gã để cho nhóm lính đi qua, rồi xoay hướng bước theo họ trên một con đường nhỏ. Gã giữ khoảng cách gần, để luôn luôn nhìn thấy mùi bụi vẩn lên sau chân họ. Điều duy nhất gã quan tâm bây giờ chỉ là món vũ khí. Nó khiến gã cảm thấy mạnh mẽ, vô cùng mạnh mẽ.
Khi bình minh đã chiếu sáng bầu trời từ phía đông, gã đàn ông vẫn thấy chưa mệt mỏi. Gã có cảm giác như người vừa đủ, bởi gã vô cùng tin chắc vào việc làm của mình.
Băng qua một con suối nhỏ bằng một cây cầu cổ bằng đá, gã nhìn thấy những nóc nhà của một thành phố nhỏ nhô lên, màu trắng xen lẫn xám, rải rác
trong một thung lũng con con và trên cả triền núi. Trên triền núi có cả một nghĩa trang nhỏ. Cách chỗ gã đứng không xa, ngay bên cạnh ngọn tháp của ngôi nhà thờ là một ngôi nhà trông có vẻ rộng rãi, to lớn. Gã đàn ông chọn nó làm mục tiêu. Những người sống trong một ngôi nhà như thế này chắc chắn phải rất giàu có và hoàn toàn có thể chia sẻ một phần sự giàu có đó cho gã.
Đó là ngôi nhà của một thương gia.
Chỉ cần hỏi một vài người trong khu vực xung quanh, gã đã tìm ra điều đó. Hai giờ đồng hồ sau, gã nấp trong khoảng vườn của ngôi nhà. Khoảng vườn không phải chỉ được bảo vệ bởi những bước tường, mà có cả một vài nô lệ da đen. Họ không nhìn thấy gã, họ chỉ nhìn thấy con dao găm, nhưng ở những thời điểm quá muộn màng.
Gã đi vào trong nhà.
Gã cảm nhận một sự mát lạnh đến tuyệt vời bên trong ngôi nhà. Những khoảnh ao và những vòi phun nước ngoài vườn khiến ngôi nhà không chỉ mát dịu mà còn làm xuất hiện cả những bóng đen. Hắn biết rằng chủ nhân ngôi nhà đã sống một vài năm ở miền Trung Cận Đông và đã đưa một vài nét kiến trúc ở đó về nước Pháp.
Gã tìm thấy người đàn ông trong vườn, ông ta đang nằm dài trên một chiếc ghế sofa. Một người đàn ông béo phì với một cái bụng tròn như quả bóng, một gương mặt múp míp như mặt lợn, lơ thơ vài sợi tóc trên đầu.
Gã chơi trò mèo chuột với người đàn ông.
Gã chỉ cho ông ta biết con dao của gã có thể làm được gì. Nó không phải chỉ biết giết, nó cũng có thể gây ra những vết thương, hoàn toàn như ý của chủ nhân của nó muốn.
Vậy là ngay lập tức, Malraux trở thành giàu có.
Tên giết người rất muốn mang thêm, nhưng sức vác của hắn chỉ có hạn. Số vàng này sẽ đủ cho việc khởi đầu một tương lai mới.
Thêm một lần nữa, gã ra lệnh cho con dao găm bằng thứ giọng lạnh tanh mùi máu:
- Giết!
Nười thương gia giàu có chết với một tiếng rên nho nhỏ trên môi khi chưa kịp hiểu vì sao phải chết.
Malraux rời căn nhà, cảm giác cả thể giới đang mở ra dưới chân gã, thuộc về gã.
Và thế là gã đàn ông mang lốt quỷ biến ra khỏi miền Nam nước Pháp, lặn thật sâu. Thỉnh thoảng người ta lại tìm thấy một vài dấu vết mơ hồ của hắn, những dấu vết chỉ rất ít người trong cuộc biết đến.
nvdtdnguyen
22-02-2007, 05:52 PM
Chương 5

Bá tước Dean Ellroy đưa cả hai tay cầm lấy tấm vải phủ bằng lụa, rồi giật nó lên cao.
Trong một thoáng, miếng lụa trôi bồng bềnh như một thiên thần dang cánh trên thân hình người vợ đã chết của ông, nhợt nhạt và cứng đờ. Bà nằm trên giường ông, mặc một bộ áo ngủ bằng lụa. Ở khoảng chính giữa, ngang với tầm cao của trái tim, nền lụa hiện rõ một vết màu đỏ. Công cụ chết ***c đó đã đâm trúng bà ở chỗ này.
Tấm vải phủ xuống, tấm vải màu tang.
Nó tỏa ra, trùm lên toàn bộ thân hình của người đã chết, cứ như Eireen cần phải được xóa khỏi ký ức của người chồng.
Với những bước chân nặng nề, bá tước Dean Ellroy rời khỏi phòng ngủ. Những suy nghĩ trong đầu ông xoay quanh Eireen. Ông biết, không một ai có thể trốn tránh được số phận của mình. Cả ông cũng không…
Ông đi qua ngôi nhà, thấy nó trống vắng đến tận cùng vì không có Eireen.
Người hầu kẻ hạ đã được ông gửi đi chỗ khác. Người chồng ngồi xuống phía sau bàn viết, vùi mặt vào giữa hai bàn tay. Bá tước Dean Ellroy bật khóc, ông khóc thương cho Eireen, người đã chết thay cho ông, bởi người mà con dao đó muốn hạ thủ là chính bản thân ông. Chỉ bởi Eireen thay đổi giường ngủ trong đêm nên Thần Chết đã tóm lấy bà. Bản thân ông đến câu lạc bộ và nghỉ đêm tại đó. Eireen biết tất cả, và không nói một lời nào. Cả đời bà là người ít nói, nhưng bà yêu ông bằng tất cả trái tim, cũng như ông yêu bà vậy.
Giờ thì bà đã chết.
Bà bị giết bởi một lời nguyền rủa mà lẽ ra không được tồn tại. Bị giết bởi một thứ vũ khí có tồn tại đấy, nhưng không hiện hình, bởi không ai nhìn thấy nó. Món vũ khí được điều khiển bởi những thế lực ma quỷ và bản thân ông là một trong rất ít người biết được điều này.
Có kẻ nào đó đã lôi nó ra khỏi nơi cất giữ. Kẻ đó muốn dùng món vũ khí này để diệt trừ những người đàn ông đáng kính trọng, và ông biết, một vài thành viên trong nhóm hội ăn thề của ông đã qua đời, tại nước Mỹ, tại châu Á, một người ở Berlin.
Bây giờ đến ông.
Bá tước Dean Ellroy thở nặng nhọc. Ông là một người đàn ông cao lớn có mái tóc đã xám trắng, khuôn mặt thon nhỏ với đôi mắt đại bàng tinh tường, một đôi mắt có thể nhìn thấu đến tận đáy tâm hồn người đối diện. Nhưng tất cả những nét tinh tường sắc sảo đó giờ đ

Back to posts
[Game Online Nhập Vai] - Vấn Kiếm 2012 - Vô địch PK
Vườn Thiên Đường - Cùng chơi game, trồng cây, kết bạn, tán gái
Siêu Bài iWin+ 2012 phiên bản mới nhất
+ Tải clip girl xinh trong phòng tắm
Sòng Bài 2012 - Tá Lả, Tiến Lên, Poker, 3 Cây


© 2012 Hà Văn Phú . All right reserved

Games cực đỉnh trên di động. TẢI NGAY MIỄN PHÍ!!!
C-STATU-ON

(Seo) Bạn đến từ :


XtGem Forum catalog