Ở làng Vạn Yên, dòng họ ông Đào Ngọc Phú là gia đình duy nhất có nghĩa trang tư thành hình cách đây đã ba thế hệ. Người ta kể rằng lúc ông nội của ông Phú còn ngồi ghế quan huyện đã dùng thế lực để mua lại cơ ngơi của một gia đình lân cận giáp ranh phía sau nhà ông rồi cho san bằng, và lập nghĩa địa riêng, dặn con cháu là khi ông xui tay nhắm mắt thì an táng ấy là miếng đất có long mạch tiềm ẩn. Dòng họ Đào Ngọc sẽ tiếp tục phát thêm được mấy đời nữa.
Khu nghĩa trang ấy nằm vào khu đất trũng, có hàng rào gỗ bao bọc. Quanh năm âm u vì lũy tre già rũ xuống che phủ. Lại thêm cây đa cổ thụ mọc bên hông, tàn lá ngăn hết ánh sáng mặt trời, khiến những ngôi mộ nằm trong đó trông càng lạnh lẽo. nhất là những buổi sáng mờ sương hay những khi chiều tối.
Nhưng có lẽ thầy địa lý đoán sai, cho nên hai ba thế hệ kế tiếp nhau, dòng họ Đào Ngọc cứ xuống dần, thoái Quan vi dân về làm ruộng. Gọi là xuống, nhưng ruộng đất còn rất nhiều, so với đại đa số dân làng thì họ Đào Ngọc vẫn thuộc hàng ăn trên ngồi tróc, vinh hoa phú quý hơn đời.
Chỉ có điều làm ông Phú không hả dạ là vì trong thâm sâu, ông mê làm Quan. ông thích chức quyền để dược nể sợ, chứ không muốn chỉ làm người phú hộ. Tuy giàu mà thiếu cái oai phong, hách dịch. ông bỏ thời gian đi tìm thầy địa lý mãi trên cao bằng, đón về để coi khu nghĩa địa sau vườn, và kể rõ câu chuyện ông nội làm Quan năm xưa, hy vọng là có thể nhờ thầy xoay chuyển lại số mệnh, tái lập con đường hoàng lộ lại cho ông và con cháu.
Nhưng thầy coi xong thế đất rồi bảo:
- Vận số của ông chỉ được đến thế thôi, như vậy cũng được đại phúc lắm rồi. Tương lai hung khiết chưa biết thế nào, cần phải thi ân bố đức cho thật nhiều. Nhân đã dạy là Tiên tích đức, hậu tầm long. Xưa Cao Biền thời Đường bên Tàu sang cai trị nước ta, xây thành Đại La, dùng phép phong thủy để yểm chấn những nơi có long mạch, hòng làm cho dân Nam mỗi ngày một suy yếu, không vùng lên được. Phép yểm buà của Cao Biền hiểm hóc lắm, giết đứa con gái 17 tuổi, moi hết ruột gan, nhồi cỏ vào bụng, rồi cho mặc quần áo màu vàng, giả làm Thần Linh để đánh lừa Thần Núi Tản ở nước ta. Phép ấy thì tôi cũng có thể làm được để xoay chuyển vận số cho ông. Nhưng xét ra ác động và tội âm đức lắm. Con cháu về sau sẽ phát cuồng, mà đi ăn xin tha phương cầu thực.
ông Phú nghe xong, thở dài não ruột, chia tay ông thầy địa lý, rồi ông ra phía trang sau nhà thắp nhang khắp lượt, con mèo đen thoăn thoắt chạy theo, con mèo này ông nuôi từ khi mới đẻ, lúc nào cũng gắn bó không rời ông. ông buồn rầu nhìn gần 20 ngôi mộ xây cùng kích thước. Phần lớn lớp xi măng bọc ngoài đã lên riêu xanh mốc. Người lạ đến nhà ông bất chợt ra vườn sau, nhìn thấy những ngôi mộ san sát ấy, thường khó tránh khỏi cái cảm giác rờn rợn bao phủ. Nhưng với cả nhà ông thì đã quá quen mắt từng ngày, nên chẳng bao giờ bận tâm đến. Thậm chí có những đêm trăng mờ, lũ con ông còn dám rủ nhau ra, chọn một ngôi mộ bằng phẳng, leo lên ngồi cầu cơ gọi hồn về để hỏi chuyện tương lai. Thầy địa lý đi rồi, bà Phú ngước mắt nhìn chồng và nhắc lại:
- Thầy nói đúng lắm đó ông à! Mình được như thế này là quý lắm rồi. Phúc đức tại tâm, Thầy bảo phải thi ân bố đức, thì cứ nghe lời thầy mà làm. Từ nay, giúp được ai cái gì thì mình cứ giúp ; ông đừng có đón Thầy về nữa, tốn phí mà chẳng có lợi lộc gì. Theo tôi thì, cứ ăn ở cho phải đạo là tốt hơn cả.
ông Phú nhíu mày gắt nhẹ:
- Bà nói chuyện hay nhỉ? Thi ân bố đức thì lúc nào mà tôi chả rộng rãi hơn người? Cái dạo vỡ đê năm thìn, không có tôi bỏ tiền cứu lụt ở làng này, thì cả làng không có đủ đất mà chôn người chết, bà quên rồi hay sao? Rồi cái dạo năm Dậu bị hạn hán, củ chuối củng không có mà ăn, dân làng chết như rạ. Nửa năm trời tôi xuất kho phát chẩn cứu bao nhiêu người đều không là thì ân bố đức hay sao?
Bà Phú dè dặt góp ý:
- Hời... Nói của đáng tội, tiền của ông nội nhà mình thì đều là....là...
- Đều là thế nào? Có phải bà định bảo là tiền của phi nghĩa, bóc lột của người nghèo có phải không? Tôi cấm bà mở miệng nhắc đến việc ấy. Nghe lời những quân mất dạy ở ngoài đường.
Bà Phú nhẫn nhục phân trần:
- Sao mà cứ động một tí là ông cứ mắng tôi? Tôi là tôi vì ông, vì các con, nên mới bàn góp cho ông vài lời, chứ tôi có muốn nói ra làm gì? Tôi chỉ nhắc lại lời thầy địa lý bảo là mình phải làm phúc. ông cứu lụt rồi ông phát chẩn thì tôi quên làm sao được? Chính tôi cùng với người làm gánh từng gánh cơm ra đê cho người ta ăn mà. Rồi tôi múc cơm rồi tôi phát vải ra cho dân nghèo. ông tưởng tôi không nhớ hay sao? Nhưng mà ông ạ! Những việc ấy mình làm là vì lúc ấy ông định ra tranh cái ghế nghị viên, cần mua cảm tình của thiên hạ chứ không phải là vì lòng tốt đâu ông? Mình thì mình lừa người được chứ mình che mắt Thánh thế nào được?
ông Phú tái mặt quát lớn:
- Bà câm đi! Bà vào nhà này bưng bát cơm đầy, kẻ hầu người hạ, ăn trắng mặc trơn. Không nhớ ơn thì thôi, lại còn giở giọng bạc bẻo.
Bà Phú sợ quá vội lủi thủi bỏ vào nhà. Bà ngẩm nghĩ lại chuổi ngày dài đăng đẳng sống với chồng, sinh cho chồng bốn đứa con: hai trai, hai gái. Quả thực, miếng cơm manh áo thì bà chưa bao giờ phải bận tâm dù gia cảnh có sa sút đôi chút so với thời trước. Nhưng hai vợ chồng có những khác biệt quá sâu đậm về tính tình mà luôn luôn bà phải chịu đựng. Bà hiền lành bao nhiêu thì hình như ông Phú là người mang ác tính bẩm sinh.
Anh bếp Nhỡ ở với gia đình bà gần 10 năm, một hôm ăn cắp mấy đấu gạo mang về cho Mẹ già, bị cô con gái bắt gặp tri hô lên. Với bà Phú thì chuyện ấy nhỏ nhặt quá, chẳng có gì phải làm lớn. Bà gọi anh lại và mắng:
- Này, mày dốt vừa vừa thôi! Mày cần gạo sao không bảo tao một tiếng? Lần sau mà giở cái thói ăn cắp là chết với tao đấy nhé.
Bà nạt cho có lệ thôi, chứ bà biết Nhỡ hiền lành. Lấy trộm gạo là điều bất đắc dĩ. Nhưng không may cho Nhỡ là ông Phú ở trên nhà nghe thấy, ông gọi Nhỡ lên, phang cho mấy gậy gần què chân rồi đuổi thẳng, bà Phú xin mải cũng không được. ông bảo:
- Nuôi thứ ấy trong nhà thì thế nào cũng có ngày nó làm nội ứng dắt cướp vào. Đuổi nó đi, cẩn tắc vô ấy náy
Bà Phú dúi cho ít tiền và bảo Nhỡ mang về nhà cho mẹ già và dặn hễ khi nào túng quẩn quá, không biết trông vào đâu, thì tìm cách gặp riêng bà, bà sẽ giúp đỡ. Những việc nhân đức bà làm ngoài sự thúc đẩy tự nhiên do bản tính trời sinh, bà còn muốn thực hiện để phần nào trả nợ cho chồng, trả cái nợ do những hành vi bất chính và nhẩn tâm của ông Phú. Bà không phải là người sùng đạo của bất cứ tôn giáo nào, nhưng bà tin một cách đơn giản rằng: làm lành thì hưởng phước, gieo gió thì ắt có ngày gặt bảo.
Trước đó ông Phú có mối thù với ông Kháng Lạc chỉ vì tranh nhau mua lại mấy sào ruộng chiêm ở đầu làng. Việc chưa ngã ngủ, ông Phú cho người nhà nữa đêm lẻn đến nhà ông Lạc, ra lũy tre bên hông, dấu mấy chai rượu lậu và đồ nghề gần bờ ao rồi báo Tây đoan về bắt. Quả nhiên cái tết năm ấy, ông Lạc đi tù với đầy đủ tang vật: Cái nồi đồng ba mươi lưng lửng bá rượu, thúng gạo nếp đã vo sẳn, cái trỏ và hai cái bong bóng trâu. Toàn những thứ chỉ dùng cho việc nấu rượu.
Bà Phú biết việc này, nhưng không dám lên tiếng trách chồng, chỉ thở dài vì thấy chồng làm những điều thất đức quá. Bà lo cho đàn con mai sau phải gánh chịu hậu quả bởi bà vốn tin vào luật vay trả, vào thuyết quả báo. Con cái nhờ đức của cha, bà thường nghe nói thế, nên bà rất sợ cho hai cô con gái của mình.
Bốn đứa con của bà, Long đã có vợ hai con cũng ở ngay trong làng. Kim mới lấy chồng chưa có con, ở khác làng nhưng cùng tổng, cách một cánh đồng ngô. Còn con gái thứ ba là Nhàn và cậu út Hoành đang ở chung với bố mẹ. Gia đình như thế thì kể củng là ít người bởi căn nhà cổ kính truyền đã ba đời của ông Phú thuộc loại đồ sộ, tường xây mái ngói, cột gỗ lim, trông oai phong và vĩ đại lắm. Một cơ ngơi rộng rãi như vậy mà chỉ có hai vợ chồng, hai đứa con, thêm chị người làm và con mèo là hết.
Chị người làm ở với ông bà Phú đã 20 năm còn con mèo đen thì ông Phú nuôi từ khi mới đẻ đến nay đã lớn lắm, người ta cứ gọi nó là con cò con. Con mèo gắn bó với ông Phú, đi đâu nó cũng theo đấy, thậm chí ban đêm nó cũng chui vào buồng ngủ với ông. Ít khi thèm đi rình bắt chuột.
Làng Vạn Yên phần đông là người nghèo, mái tranh vách đất san sát bên nhau càng làm nổi bật căn nhà đồ sộ của ông Phú truyền từ đời ông nội để lại. Nhà dựng trên nền cao, mái ngói rêu phong cổ kính, với những cây cột gỗ lim đỏ thẳm, càng làm tăng thêm vẻ nghiêm trang và tăng thêm cái uy thế cho gia chủ mỗi khi người làng khúm núm đến vay nợ.
Nghề cho vay lãi cắt cỗ giúp cho ông Phú đã giàu thêm, bà Phú thường vẩn giấu chồng giảm tiền lời hoặc rộng lượng xí xóa mỗi khi con nợ gặp phải túng bấn,không trả nổi. Riêng ông thì một xu cũng không bỏ qua. Trong cái cơ ngơi khoảng khoắc ấy, gia đình ông Đào Ngọc Phú rất thanh thản, chẳng những vì của cải dư thừa mà vì các con đều ngoan ngoãn. Riêng bà Phú lại càng cảm thấy hạnh phúc vì Long đã cho bà hai đứa nội kháu khỉnh. Còn Kim tuy chưa có con, nhưng lấy dược chồng hiền, và cho đến nay thì gia đình chồng cũng tỏ ra quý dâu, chứ không hành hạ như nhiều gia đình khác ở làng Vạn Yên.
Bà tin rằng đó là do cái phúc mà đã tạo được quua những việc từ thiện. Nhưng chồng bà thì khác, mỗi khi nghe vợ khen bên thông gia đối xử tử tế với con gái ông, ông đều vênh mặt hiu hiu tự đắc nói:
- Họ sợ cái uy của tôi chứ tử tế cái gì? Bố bảo tụi nó cũng chẳng dám động đến cái Kim nhà này.
Bà Phú nén tiếng thở dài, cố đè nén nổi bực mình để khỏi cãi lại.
Cuộc sống đang bình thường như dòng nước êm trôi. Chỉ một buổi sáng tinh mơ, cả nhà chưa ai thức giấc, gà trong thôn chưa gáy tiếng thứ nhất. Bổng con mèo đen đang nằm thiu thiu trên cái ghế bên cạnh giường ông bà Phú, chồm lên lao vọt qua cửa sổ và kêu thét liên hồi, và cùng với tiếng thét ngân dài ấy, con mèo chạy vùn vụt trên mái ngói, vụt phóng xuống trước sân, gầm gừ rên rỉ như giận dữ. Mèo cắn nhau kêu lên là chuyện thường, nhưng bổng ông bà Phú nghe gõ cửa. Bà Phú giật mình ngồi nhổm dậy, quay đầu ngó qua khe cửa sổ, thấy trời còn tối lắm. Tưởng chồng chưa thức, bà rón rén bước xuống, không muốn làm mất giấc ngủ của chồng, bà vừa vấn tóc, vừa cằn nhằn nho nhỏ:
- Đứa nào mà gỏ cửa sớm thế này?
Nhưng ông Phú cũng đã dậy ngay từ lúc con mèo lao ra cửa sổ, ông định nhân tiện đi tiểu, nên bảo vợ:
- Bà cứ nằm đây, để tôi xem đứa nào mà dám đánh thức tôi với bà vào giờ này?
Trong thâm tâm, cả hai ông bà yên chí là chị Thuần, người giúp việc lâu năm của gia đình này hằng đêm ngủ dưới bếp, sáng nay bẩm báo việc gì gấp hoặc một trong hai đứa cởno buồng bên kia có chuyện phải gặp bố mẹ. ông xỏ guốc, đứng dậy tiến ra tháo then cửa. Trời mờ tối, lại dày đặc sương mù, ông mở to cặp mắt, chưa kịp lên tiếng thì giật mình ngạc nhiên thấy một đứa bé gái khoảng ba tuổi đứng dưới sân trong vùng sương mờ ảo, không trông rõ mặt. Con bé chià tay xin:
- Ông... ông làm ơn cho con nắm cơm... Con đói quá!
Đứa bé đứng ngay trước mặt ông, cách có mấy bước, nhưng giọng nói nghe âm vang xa lạ quá, như từ chốn thăm thẳm nào vọng về ; ông bực mình quát lớn theo thói quen hống hách của mình:
- Con cái nhà ai đi ăn xin nữa đêm thế này? Xéo ngay! Làm mất giấc ngủ của ông. ông lại vả cho mấy cái bây giờ.
Mặc cho phản ứng dữ tợn của ông, đứa bé vẫn đứng im ngước lên nhìn ông như thoát tục, mặt nó trắng toát, đôi mắt trừng trừng, nhìn ông đăm đăm. Khiến chỉ vài giây sau, ông đã mất hẳn bình tỉnh, và như có luồng gió lạnh buốt bất chợt thổi ập vào người, làm ông lẩy bẩy run sợ. Đứa bé lập lại bằng giọng sâu thẳm hơn:
- Con..Con đói quá, xin ông làm phúc cho con bát cơm.
ông Phú đứng á khẩu tại chỗ, mồm há ra, mắt tự nhiên lạc thần. Vừa lúc ấy có giọng nói đàn bà từ cổng đưa vào:
- Con ơi! về con ơi! Về với mẹ con ơi!
ông Phú kinh hãi nhìn ra cửa, thấy một người phụ nữ mặc đồ trắng toát, đứng tuốt ở cuối sân, sát cái cổng xây nhà ông giơ tay vẫy vẫy. Khoảng cách khá xa, lại gặp màn sương đục, ông không trông rõ mặt, chỉ thấy mái tóc dài đen nhánh phủ xuống vai nổi bật trên nền áo trắng. Ông còn đang ngơ ngác, mất thần thì con mèo đen từ lưng sau lao vụt xuống bên ông kêu thét lên, đôi mắt nó lông lên sòng sọc và nhe hàm răng nhọn hoắt ra gầm gừ, muốn lao lại vồ đứa bé. Hai chân với những móng sắt dài, nó cào liên tiếp trên nền gạch. ông Phú nghe rõ tim mình đập thình thịch như sắp phá vỡ lồng ngực. Thoáng trong chớp mắt, ông không còn thấy đứa bé nữa. ông ngước nhìn ra xa, thì hai cái bóng trắng ấy đã ra tuốt ngoài cuối sân,đang dắt tay nhau bước ra khỏi cổng nhà ông, và mất hút ở khóm tre bên đường.
Cả lúc sau, ông mới định thần, chập choạng bước lui vào nhà, miệng ú ớ kêu:
- Bà, bà ơi! bà..bà... bà ra ngay đây..bà ơi!
ông lùi hẳn vào bên trong, đóng ập cánh cửa lại, bà Phú từ trên giường bước xuống ngạc nhiên hỏi:
- Ủa cái thuần nó cần cái gì mà nó gọi sớm thế?
ông Phú run rẩy ngồi xuống giường lắc đầu lia lịa, một lúc sau ông mới lấy lại chút bình tỉnh bảo:
- Không! không phải cái Thuần.
- Ơ... không phải cái Thuần thì đứa nào mà gõ cửa sớm thế? Con Nhàn hay thằng Hoành?
ông Phú nắm chặt bàn tay vợ, còn bàn tay ông thì lạnh toát như nước đá, ông thở hổn hển bảo vợ:
- Bà... bà ra xem nó có còn ở ngoài ấy không?
Bà Phú không hiểu gì chỉ biết từ ngày về với ông Phú, hiếm thấy khi nào ông như thế này. Bà hỏi lại:
- Đứa nào mới được chứ?
- Đứa bé con.
Bà Phú càng ngạc nhiên:
- Đứa bé con nào? Nhà này làm gì có trẻ con?
- Không... biết con nhà ai mà nó đi xin ăn.
- Khổ thân! Ăn xin mà vào giờ này? Nhà này thiếu gì cơm nguội. Sao ông không cho nó một bát? thôi được, để tôi xuống bếp, tôi bảo cái Thuần nó lấy cho nó vậy.
Dứt lời, bà bước nhanh ra cửa, bởi vì bà vốn có lòng từ tâm. ông Phú nói với theo:
- Ừ... bà ra xem nó có còn ngoài sân không?
Rồi ông ngồi trố mắt nhìn theo, hồi hộp chờ đợi. Mở cửa, con mèo đen lao vụt vào, nhảy lên cái ghế thường của nó. Đêm tối, đôi mắt nó nhìn đăm đăm như hai ngọn lửa loé sáng có pha chút xíu màu đỏ. Bà Phú bước hẳn ra thềm, đứng nhìn quanh khắp sân và hai bên hiên, nhưng không thấy đứa bé nào cả. Bà nhướng mắt, cố phóng tầm nhìn ra phía cổng vì sương sơm dày đặc quá. Bà đứng trên thềm, quay đầu nói vọng vào:
- Có cái đứa nào đâu? Già trẻ lớn bé, chả có thấy ai hết. ông chỉ trông gà hóa cuốc, chứ có ăn mày nào mà dám vào nhà mình giờ này?
ông Phú lo lắng nói vọng ra:
- Không có ai thì bà vào đi. Bà vào rồi khép cửa lại.
Bà Phú làm theo lời chồng, trở vào giường nằm. Nhưng ông Phú bảo bà thắp cho ông ngọn đèn vặn lớn đặt trên cái bàn giữa nhà rồi vào nằm bên ông. Bà thấy rõ toàn thân ông Phú vẫn còn run lên bần bật từng cơn, ông kéo tấm chăn mỏng phủ lên tới cổ và mắt mở trừng trừng ngó lên trần. Bà Phú lấy làm lạ là tự dưng ông Phú chống bà lại đòi thắp đèn, bình thường khi đi ngủ, ông không chịu được ánh sáng dù chỉ một ngọn đèn leo lét dựng trên bàn thờ, ông cũng bắt che lại, đừng để lọt vào mắt ông. Có đèn ông không ngủ được, ông thường lập đi lập lại như thế!
Bà Phú xoay về phía ông, đưa một tay đặt lên trên trán, và lần xuống cánh tay, và bàn tay ông, thấy chỗ nào cũng lạnh toát, bà lo lắng hỏi:
- Sao mà lạnh hết lên thế này? Trời muà hè mà sao lạnh rét lên thế này?
Bà nghe thấy rõ hai hàm răng ông đập vào nhau lách cách như đi ngoài tời muà đông, gặp gió bấc thổi mạnh, bà đăm chiêu hỏi:
- Ông ơi, ông thấy trong người như thế nào? hay là lúc nãy ông mở cửa ra thì gặp luồng gió độc? Thôi cứ nằm yên đấy đi, tôi lấy lá dầu không tôi hơ lửa, tôi đánh gió cho ông nhé!
ông Phú lắc đầu, cố nói bằng giọng điềm tỉnh hơn:
- Có gì đâu! Nhưng mà bà nhớ là cả bà và tôi cùng nghe thấy tiếng gõ cửa, có phải không nào?
- Đúng rồi, tôi còn nghe thấy trước ông nữa kia mà. Tiếng con mèo nhà mình nó kêu trước rồi tiếng đập cửa sau.
ông Phú chậm rãi kể:
- Ừ! Bà làm chứng đấy nhé, rõ ràng là có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở cửa thì thấy có đứa bé con đứng ở dưới sân chià tay xin cơm, da nó trắng xanh như con nhà giàu mà lại đi ăn xin vào giờ này, thế có lạ không? Tôi đuổi nó đi, thì nó cứ đứng im nhìn tôi, rồi tôi bổng nhiên lạnh buốt. Tháng này làm gì có gió lạnh?
ông đang nói dỡ câu thì bổng con mèo lại tru lên và lao xuống đất. Lần này nó không phóng qua cửa sổ phía sau mà chồm lên, cào mạnh trên cánh cửa ra vào, nhe răng gầm gừ liên tục. ông Phú đang nói, quay mặt lại, nắm chặt cánh tay vợ, trố mắt nhìn theo con mèo. Vài giây sau quả nhiên có tiếng gõ cửa, ông Phú toan hét lên vì kinh sợ, nhưng ông nằm bất động, níu cánh tay vợ thật chặt. Tiếng gõ càng thôi thúc khiến con mèo chồm lên gào cánh cửa, tiếng gầm gừ càng thảm thiết hơn, ông run lập cập bảo bà:
- Nó... nó... nó đấy bà, nó chưa đi đâu.
Bà Phú gỡ tay chồng ra và bảo:
- Ra cho nó bát cơm để nó đi. Rõ lẩn thẩn! Đêm hôm khuya khoắt thế này nó vào đây xin bát cơm, chả lẻ đuổi nó đi à? Thôi được rồi, ông cứ nằm im đó đi. Tôi xuống bếp lấy cơm cho nó.
Bà tuột nhanh xuống giường, xỏ guốc đi ra. öng Phú ngồi bật lên, trố mắt nhìn theo chờ đợi. Bà Phú vừa tháo then ngang, vừa nói lớn:
- Đứa nào đập cửa đấy? Từ từ rồi tao mở, làm cái gỉ mà inh ỏi lên thế?
Rồi bà mở rộng cánh cửa gỗ, con mèo liền đi ra, nhưng chỉ vài giây sau bước vào, nhẹ nhàng nằm khoang thai bên ông Phú. Bà Phú bước ra thềm, ngạc nhiên chẳng thấy ai. Bà đứng trên hiên, nhìn ra phía cổng, cũng chẳng thấy bóng người nào. Bà bực mình hỏi lớn:
- Đứa nào đập cửa nhà bà đấy?
Không có ai đáp lại, bà buột miệng nói:
- Lạ nhỉ? Rõ ràng là vừa đập cửa cơ mà, biến đi đâu mà nhanh thật đấy? Này này, con cái nhà ai mà nghịch như quỷ thế hả? Bà mà túm được là mày chết với bà đấy!
Bà đứng thêm một lúc rồi vén mùng quay vào nằm bên chồng, ông Phú hồi hộp hỏi:
- Bà có thấy đứa bé không?
- Có thấy gì đâu?
- Ơ! Mà rõ ràng cả hai lần nó gõ cửa bà đều nghe thấy chứ đâu phải là tôi ngủ mê! Lần trước tôi ra, thì nó đứng ngay trước mặt tôi, bận này bà ra thì lại không thấy, thế này là thế nào?
Cả hai cùng im lặng vì cả hai không tìm ra được câu trả lời, một hồi ông Phú hạ giọng nói như tự hỏi:
- Chả biết là người hay là ma?
Bà Phú đáp ngay:
- Ma với quỷ cái gì? Chắc đứa nào nó trêu mình!
Tuy bà nói thế nhưng lòng bà bắt đầu thắc mắc, vì bà biết làm gì có đứa nào dám trêu chọc bà ở giữa khuya khoắt như thế này? Ban ngày còn chả dám huống chi là ban đêm. Đắn đo một chút bà hỏi:
- Mà này ông! Thế ông thấy đứa bé thật à? ông có chắc không đấy?
ông Phú gắt nhẹ:
- Bà ơi, tôi ngần này tuổi. Cả đời có biết ma là cái gì đâu. Nhưng mà hôm nay... hôm nay thì tôi thấy lạ lắm....
Bà Phú ngắt lời:
- Tôi thì..tôi chỉ sợ ông ngáy ngủ, mắt nom không rõ thôi. Chứ ông nghĩ mà xem ăn xin gì... chả ai ăn xin vào lúc nữa đêm như thế này! huống hồ trẻ con thì giờ này ngủ say như chết ấy, lay không dậy nổi chớ đừng nói là giờ này lang thang ngoài đường!
ông Phú càng kinh sợ qua những lời vợ ông vừa nói thì rõ ràng là ma chứ không phải là người. Bà Phú bổng nhổm dậy, bước nhanh xuống giường, ông Phú hốt hoảng hỏi:
- Bà đi đâu đấy?
Bà Phú vừa xỏ guốc vừa đáp:
- Tôi đi gọi cái Thuần
Bà mạnh dạn bước ra tháo then cửa, khe khẻ hé mở, tiếng bản lề để lâu ngày rỉ sét, kêu lên kèn kẹt. bà mở to mắt nhìn xa xa, dĩ nhiên không thấy ai, sương vẫn dày đặc trong không gian mờ tối. Bà bước hẳn ra, đứng lại một lúc trên thềm không thấy động tỉnh gì, bà mới đi nhanh xuống bếp và gọi:
- Thuần ơi!
Chị người làm nằm trên cái giường kê sát cửa bếp, ngồi dậy vấn tóc và đáp:
- Ớ! Bà gọi con ạ? Có việc gì sớm thế ạ?
Bà Phú ngồi xuống bên cạnh và hỏi:
- Này, tối ngày hôm qua mày quên đóng cửa phải không?
Chị Thuần quả quyết:
- Ấy chết! Sao bà nói thế ạ? Con đóng cổng, cài then cẩn thận lắm, quên làm sao được ạ? Có cô Nhàn làm chứng, lúc đó cô con vừa tắm ở dưới ao lên, đi ra cổng cùng với con. Bà không tin thì hỏi cô con là biết ngay ấy.
Bà Phú ngồi thừ người im lặng, chị người làm sốt ruột hỏi thêm:
- Có cái gì thế bà? Có việc gì thế bà? Trộm vào nhà mình hở bà? hay là có chuyện gì không? Bà làm con lo quá bà ạ!
Bà Phú không muốn để chị người làm kinh hãi, sợ chị sẽ kể với hai đứa con, cho nên bà đứng dậy và bảo:
- Không, tao chỉ hỏi thế thôi!
Rồi bà bước ra sân, vừa đi vừa nhìn xung quanh một lần nữa.
ông Phú vẫn nằm nhắm mắt trên giường, nghe tiếng chân vợ vội lên tiếng:
- Bà kể với cái Thuần ấy à?
- Không, tôi chỉ hỏi nó là tối hôm qua nó có đóng cổng hay không thôi.
- Rồi nó bảo sao?
- Nó quả quyết là nó có đóng, có cả cái Nhàn ra cùng đóng cổng với nó.
Dứt lời, bà mén vùng chui vào, ngả người nằm xuống và nói bâng quơ:
- Lạ thật đấy, tôi thì tôi vẫn cứ cho là ông quáng gà chứ làm gì có đứa bé con nào?
ông Phú đã bình tĩnh trở lại, ông gắt nhẹ:
- Ừ thì cứ cho là tôi nhìn lầm đi. Nhưng cả hai lần nó gõ cửa, bà đều nghe thấy, chứ nào phải riêng tôi? hỏi bà ai gõ mới được chứ? Đây nhé, vừa nghe tiếng gõ cửa bà chạy ra ngay lập tức, mà không thấy ai, tôi hỏi bà cái sân nhà mình nó trống hốc ấy. Giả như có đứa nào nó cố ý trêu tôi với bà, thì nó núp vào đâu?Nó vừa gõ cửa, bà ra ngay cơ mà! Người mà chạy nhanh đến thế hay sao? Bà thử nghĩ xem!
Nghe những lời phân tích ấy, bà cho là chồng hoàn toàn có lý, buộc miệng nói theo:
- Ờ, sân nhà mình thì làm gì có chỗ núp ông nhỉ?
ông Phú càng tin là mình đã gặp ma, rồi từ đó hai người im lặng nằm bên nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Mãi cho đến khi gà trong xóm rộn rã gáy khắp lượt, tiếng bước chân, tiếng nói chuyện huyên náo của dân làng kéo nhau ra đồng trên con đường đất rộng chạy ngang trước nhà. ông Phú mới mệt mỏi ngồi dậy ra thềm đứng nhìn khoảng sân gạch đang sáng dần trong ánh bình minh.
Mặt trời lên, làm ông thấy tỉnh táo hẳn, không còn sợ hãi như trong đêm. ông bước xuống sân thong thả đi ra cổng, và quả nhiên thấy cánh cổng vẩn còn khép kín, cài then trong với chiếc khóa đồng to bản vẩn nằm im ở vị trí thường lệ. Nhà ông từ mấy đời vì của cải khá nhiều nên xây tường bao quanh, và đêm đêm bao giờ cũng đóng then để đề phòng trộm cắp. Cổng khóa có nghĩa là người lớn không hề vào được, huống hồ là đứa con nít ba bốn tuổi. ông thơ thẩn quay vào, đi quanh một vòng.
Mặt trời lấp ló sau rặng tre, chiếu những tia nắng ban mai rực rỡ, in bóng ông chạy dài in trên nền gạch. ông bước lên hiên, uể oải ngồi xuống bậc thềm ngay chỗ sáng nay ông đúng nói chuyện với đứa bé lạ mặt. Con mèo đen lấm lét bước theo, rồi leo lên nằm trên đùi ông.
Bà Phú từ dưới bếp đi lên bưng khay trà toan bước vào nhà để đặt lên bàn cho chồng như thường lệ. Nhưng ông Phú vẫy bà, chỉ tay xuống sân và nói:
- Chỗ này nè bà! Nó đứng ngay chỗ này này.
Bà Phú đặt khay trà trên hè và cũng ngồi xuống bên cây cột gỗ lim. Bà lật hai cái cốc thủy tinh rồi rót nước trà, hơi nóng bốc lên nhè nhẹ. ông Phú có thói quen sáng thức dậy là phải uống ngay một cốc nước trà thật nóng và thật đặc trước khi ra hông nhà bếp xúc miệng rửa mặt. Nhìn nét ưu tư trong ánh mắt chồng, bà Phú tự hỏi:
- Hay là thật sự có đứa bé hàng xóm nữa đêm lẻn vào chọc ghẹo, cốt để làm cho vợ chồng bà sợ? Trẻ con làng này thì có thiếu gì đứa quấy phá thiên hạ.
Nghĩ thế, bà hỏi:
- Này, nó... nó... con cái nhà ai? ông thấy mặt mũi nó ra làm sao? ông có nhớ nó không?
- Nào tôi có biết. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy chắc một điều là nó không phải là đứa bé ăn xin. Con nhà ăn mày làm gì có quần áo trắng tinh như thế! Với lại bà nói đúng, bố mẹ nào mà xui con đi ăn xin mà lại đập cửa nhà người ta giữa nữa đêm như thế. Người ta đánh cho què chân chứ lị!
Tất cả những nhận xét của ông Phú, thật ra bà Phú đã nghĩ đến từ nãy đến giờ, nhưng không muốn nói ra sợ làm chồng càng thêm sợ, bà chỉ khẻ gật đầu tỏ vẻ đồng ý, ông Phú lại thêm:
- Bà ạ, tôi vừa ra coi lại ngoài cổng, thì cổng vẩn còn khóa
Bà Phú bưng cốc nước nóng xoay xoay trên tay quay sang nhìn chồng. Một người bản tính hung hăng như chồng bà mà từ lúc nhìn thấy đứa bé lạ mặt trong đêm khuya, bổng dưng biến thành con người khác với những sợ sệt không che dấu nổi, thì chắc hẳn đứa bé ấy có cái ma lực gì ghê gớm lắm. Có thể nó là một oan hồn từ khu nghĩa trang ngay sau vườn nhà bà hiện về chăng? Nhưng bà lại lắc đầu gạt đi vì bà nhớ lại 20 người chôn sau nhà bà không ai chết trẻ. Đó là điều làm cho bà vẫn còn ngờ ngợ, nữa tin nữa không tin. Bà phân vân hỏi chồng:
- Ý ông thì....thì ông nhất định cho rằng đứa bé ấy nó... nó... không phải là người à?
- Ma chứ không phải là người. Bà nhớ lại mà xem, có bao giờ con mèo nhà mình nó lồng lộn như đêm hôm qua đâu? Hễ nó gào lên, là lập tức có tiếng gõ cửa. Giống mèo nó nhận được ma ấy bà ạ! Bà không nghe người ta kể là quỷ nhập tràng hay sao?
- Có, có nghe! Nhưng mà quỷ nhập tràng nghĩa là quan tài người chết vẫn quàng trong nhà chưa đem chôn, nếu như mà có con mèo đen nó nhảy qua thì quan tài sẽ đứng bật dậy, rồi nắp quan tài bung ra, rồi người chết đuổi theo con mèo. Tôi thì tôi nghe người ta kể như thế.
Bất giác, ông Phú cuối xuống nhìn con mèo đen của mình đang nằm bên cạnh đùi ông. Và tự dưng ông thấy rờn rợn vì biết đâu nó chẳng biến thành tinh khi gặp quan tài người chết. Bà Phú uống ngụm nước, đặt lên, rồi trầm ngâm tiếp:
-..Tôi, thì tôi về ở với ông hơn hai mươi mấy năm rồi trong cái căn nhà này, chưa hề nghe nói nhà mình có mà bao giờ. Nhưng mà hôm nay nếu ông tin là có ma, thì để tôi bảo cái Thuần nó chạy đi mời Thầy, Thầy Lĩnh Quang ở bên Xuân Diễn ấy. Ngoài chợ người ta cứ đồn là Thầy Lĩnh Quang cao tay lắm. Thầy sai được cả âm binh và có phép mỡ mả chị thằng Trùng ấy. Để tôi thỉnh Thầy về cúng kiến xem sao, đuổi hồn ma đi khỏi quấy rầy nhà mình ông nhé.
ông Phú giơ tay ngăn lại:
- Hẳng khoan bà, tôi không muốn cái chuyện này ầm ỉ lên. Từ từ xem thế nào đã. Cần thì cũng phải mời nhưng thư vài hôm nữa xem sao.
Bà Phú đồng ý ngay:
- Thì tôi sợ ông lo quá rồi thành bệnh nên tôi mới đề nghị ông như thế, chứ thật ra tôi đâu muốn chuyện này nó lan ra ngoài cho thiên hạ biết đâu. Miệng đời nó ác dộc lắm! Người ta lại bảo là nhà mình thất đức bị trả quả báo.
Hai chữ thất đức, bà Phú nhấn mạnh để ám chỉ chính ông chồng những năm tháng đã qua. ông Phú dường như cũng biết ý vợ nên chớp mắt nâng ly trà hớp một ngụm lớn rồi không nói gì. Bà Phú liếc mắt nhìn chồng, thấy ông đã tỉnh hẳn chứ không lạnh người như trong đêm. Tuy vậy ánh mắt ông vẫn nặng trĩu ưu tư và da mặt sáng nay chợt xanh xao như người sốt rét lâu năm. Để trấn an ông, bà quay về với luận ngữ cũ hy vọng giúp chồng quên hẳn nổi sợ hãi vừa xảy ra, bà bảo:
- Trời ơi, đêm qua ông làm tôi sợ quá, tôi tưởng ông lên cơn sốt rét.
ông Phú gật đầu rồi nói:
- Bà nhớ đấy nhé, bà đừng dể hở cái câu chuyện nhà mình cho người ngoài nghe đấy nhé! Con Thuần, cái Nhàn, thằng Hoành, bà không được nói với chúng nó.
Bà Phú đồng ý ngay, bà nhắc lại:
- Với lại đã chắc gì là ma? ông bảo sáng nay ông nom thấy đứa bé đứng ở đây xin cơm, nhưng mà khi tôi mở cửa ra, tôi chả thấy đứa bé nào cả. Tôi thì tôi chỉ sợ lúc ấy ông ngái ngủ, mắt nhắm mắt ngủ, trời lại lắm sương mù cho nên ông nom cái nọ nó xọ ra cái kia chăng?
Ông Phú cũng mong như thế, mong rằng hình ảnh đứa bé sáng nay ông thấy đứa bé trước cửa nhà ông cũng như người đàn bà đứng ngoài cổng, đều chỉ là ảo giác. Nhưng rõ ràng không phải, ông nom thấy thật, ông ônở nụ cười héo hắt bảo vợ:
- Tôi là chúa ghét chuyện nhảm nhí, ghét những chuyện mê tín dị đoan, bà thì còn hay tin vớ vẩn chứ bà có thấy tôi tin ma quỉ bao giờ? Ấy thế mà bây giờ chính tôi lại gặp.
ông vừa dứt lời thì từ dưới bếp, chị người làm và hai đứa con cùng kéo lên, cái Nhàn hơn 20 tuổi, con gái cưng của bà Phú. Thằng Hoành 16 tuổi, học chữ Quốc ngữ hết lớp ba bậc Tiểu học thì trường làng không còn lớp cho nó tiếp tục nên đành quanh quẩn ở nhà. Nhàn ngồi xuống bên cạnh mẹ và hỏi một cách lo lắng:
- Nhà có việc gì thế hở mẹ? Đêm qua có trộm hay sao mà sáng nay con thấy mẹ xuống bếp đánh thức chị Thuần sớm thế?
ông Phú đưa mắt nhìn vợ làm hiệu, bà Phú vội xua tay phân trần:
- Trộm đâu mà trộm, mẹ chỉ hỏi chị Thuần là có quên khóa cổng hay không thôi.
Cái Nhàn thắc mắc hỏi:
- Ơ... nhưng mà rõ ràng con nghe tiếng bố nói chuyện với ai ngoài hè cơ mà? Lúc đó con giật mình thức dậy, con tính con chạy ra con thấy mẹ chạy xuống bếp gọi chị Thuần.
Bà Phú cười đẩy con:
- Bố mày mê ngủ đấy chứ có nói chuyện với ai đâu! Chuyện vãn gì nữa đêm vậy?
Thằng Hoành ngồi xuống bên cạnh chị, chăm chú theo dõi nhưng không nói lời nào, chị người làm lên tiếng đổi đề tài:
- Hôm nay bà với cô Nhàn có đi chợ không ạ? Để con mang quang gánh ra cho bà.
Bà Phú quay sang hỏi con gái:
- Đi hay ở nhà con?
Nhàn ngạc nhiên nhìn mẹ và đáp:
- Đi chứ mẹ! Chợ phiên mà! Mẹ bảo là mẹ mua vải may cho con và thằng Hoành mỗi đứa hai cái áo cánh mà!
Bà Phú thở dài:
- Ờ... ừ... thì đi, nếu đi thì phải đi cho sơm con ạ. Hôm nay sương nhiều, chốc nữa nắng to phải biết.
Rồi bà quay sang chồng:
- Thế ông có cần mua cái gì không?
ông Phú uể oải đáp:
- Bà xem trong tủ có còn chè mạn sen không? Hết thì mua cho tôi mấy gói.
Bà Phú đứng dậy bước vào nhà và nói:
- Ừ, để tôi xem coi
Rồi bà giục con gái chuẩn bị lên đường, bà bảo chị người làm:
- Lấy cái thúng được rồi. Có mua gì nhiều đâu mà cần quang với gánh.
Chị Thuần và Nhàn xuống bếp, thằng Hoành ra vườn sau xem tổ chim trên cây bưởi, chỉ còn mình ông Phú ưu tư ngồi trên
thềm nhìn ra cổng, không nói lời nào. Nổi lo sợ trong đêm gần như tan biến hết dưới ánh sáng mặt trời. ông ngẩm nghĩ mãi về cuộc đời, ông không hiểu tại sao ông lại gặp ma, hay đúng hơn là tại sao ma lại đến với ông?
Những câu chuyện về thế giới bên kia, về oan hồn vươn vấn dương gian. Ai mà chả từng nghe kể, mà chỉ toàn là tưởng tượng, là hoang đường, chứ có ai tận mắt gặp phải hồn ma bao giờ? Cả đời ông vẫn tin như thế cho đến đêm qua thì suy nghĩ của ông rẻ hẳn sang một khúc quanh khác. Chuyện tiếp xúc với cõi âm là có thật, chứ chẳng phải là ảo giác thêm mắm thêm muối cho hấp dẫn người đời. ông mong rằng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây, đừng tái diễn thêm một lần nào nữa. ông thở mạnh, vói tay lấy cái điếu cày, rồi tình cờ ngước lên ngọn cây soan mọc ở đầu nhà, trên một nhánh khác có con quạ đen đậu từ lúc nào, mắt đăm đăm nhìn ông. ông vung tay đuổi, con quạ vẫn lì lợm đứng tại chỗ, ông tìm cục đá nhỏ quăng lên, con quạ vỗ cánh đảo một vòng rồi trở về chổ cũ và vẫn nhìn ông soi mói, khiến ông hoang mang, đứng dậy bỏ vào nhà.
Một ngày trôi qua rất nhanh, buổi trưa ông thơ thẩn đi bách bộ trên thềm nhà dưới mái hiên dịu mát. Bà Phú và Nhàn đi chợ chưa về, con mèo đen đang lửng thửng bước theo ông trên trên hè bổng dưng thét lên rồi chạy vụt ra cái cổng chính, rồi cứ thế nó nhảy chồm lên cào vào cánh cổng như đang quần thảo với một kẻ thù vô hình nào đó rất hung dữ. ông Phú đứng trên nhà, toàn thân nổi da gà, trố mắt nhìn ra dù không thấy gì ngoài con mèo một mình gầm thét và cào cấu.
Một lúc sau, con mèo ngừng kêu, đứng lặng im trước bụi tre một lúc rồi quay vào với ông. ông thở hổn hển, ngồi xuống bậc thềm xoa lưng nó bởi biết rằng hồn ma vừa hiện vào cổng trước nhà ông, nhưng có lẽ vào ban ngày, ông không thấy được. Tuy nhiên, nhìn vào cảnh tượng ấy, ông cũng thấy rõ là người xưa nói không sai: chung quanh người sống, có biết bao nhiêu hồn người chết đang lởn vởn bên cạnh, mà mắt trần gian không trông thấy được.
Biết đâu trong lúc này, ông đang ngồi đây thì hai cái bóng ma xa hai mẹ con xa lạ đó cũng đang ngồi sát bên ông mà ông không biết. ông hoang mang nghĩ ngợi mãi cho đến lúc vợ ông và cô con gái đi chợ về, ông mới gượng cười đứng dậy, và cũng không kể cho ai nghe câu chuyện con mèo vừa đánh nhau với ma ở ngoài cổng.
Hiện tượng quái dị ấy tuy có làm ông sợ, nhưng dù sao đi nữa nó cũng diễn ra vào ban ngày, ông không hãi hùng lắm. ông chỉ lo đêm nay, đứa bé con mặc đồ trắng sẽ lại gõ cửa tìm ông. Cho nên buổi chiều, ông lặng lẽ ra nghĩa trang sau nhà thắp nhang từng ngôi mộ. Thành khẩn cầu xin tổ tiên phù hộ cho ông qua cơn khủng hoảng. Có nghĩa là đừng để hồn ma đứa bé tìm ông một lần nữa.
Lần đầu tiên trong nghĩa trang của chính gia đình ông, mà ông cảm thấy cái không khí rờn rợn, vương đầy tử khí. ông vừa nhắm mắt để khấn nguyện thì chợt linh cảm từ phía sau có người nào đó đang nhìn ông, ông quay đầu lại thì chẳng thấy ai. ông nhắm mắt đọc kinh tiếp thì lại thấy rõ có ai đứng nhìn lén mình, ông quay lại nữa, thì chợt nhận ra con quạ đen đậu trên cành đa chỉ cách ông có mấy thước, ông giựt mình, nhặt cục đá ném lên, con quạ kêu lên mấy tiếng ai oán rồi bay về chờ ông trên nhánh cây soan bên hông nhà. Buổi tối ông ăn qua loa mấy chén cơm rồi vào buồng vì ông sợ bóng tối ngoài sân cũng như trong các lùm cây. Lên giường nằm, ông trằn trọc thao thức mãi. Bà Phú thắp nhang trên bàn thờ rồi chìu chồng cũng lên giường sớm và con mèo đen theo thói quen, nhảy lên cái ghế dành cho nó bên cạnh giường.
Bà Phú kể cho chồng nghe các thứ chuyện vặt vãnh ngoài chợ, tránh nhắc đến chuyện đêm qua, để khỏi làm chồng thêm sợ. ông Phú nghe vợ nói chuyện, cũng ậm ừ cho qua, nhưng rõ ràng ông không chú ý vì đầu óc vẫn đang vướng bận, cố gạt đi mà không gạt nổi. Gần nữa đêm bà Phú mệt mỏi ngủ mất trong khi ông vẫn còn trăng trở, hết xoay bên phải lại đổi sang bên trái. Nằm lâu ông buồn tiểu lắm, nhưng không dám đi một mình, mà chẳng lẽ lại đánh thức vợ dậy để rũ vợ cùng đi chung với mình. Nhà cầu nằm mãi sau bếp, ông tưởng tượng giờ này ông phải băng ngang mảnh sân ra đó, bất chợt đang đi mà hai cái bóng trắng lao ra chắn lối, thì chắc chắn có thể làm ông kinh sợ đến ngất đi được.
ông nén tiếng thở dài, nhắm mắt lại cố dỗ giấc ngủ. Bên ngoài trời đã khuya lắm, ông gnhe tiếng sương đêm từng giọt đều đặn từ mái ngói đến sân gạch, ông kéo tấm chăn phủ kín trên mặt rồi cảm thấy rất khó chịu vì ngộp thở. Không gian hoàn toàn tỉnh mịch, trời đứng gió, ngoài vườn bao nhiêu cây lá không một chút lay động.
ông hồi tưởng lại bao nhiêu năm sống ở làng này, từ thuở thiếu thời, ông đã lang thang một mình trên đường khuya, dù là đêm trăng sáng hay đêm tối trời, có bao giờ biết sợ là gì? Rồi sau này khi lập gia đình, có địa vị trong làng xóm, cũng biết bao đêm ông đi uống rượu ở nhà người này, người kia. Hoặc khi ra sân đình xem hát chèo, rồi một mình trở về trên những khúc đường vắng lặng, chỉ có tàn tre hai bên rũ xuống, chuyện ma quỷ có khi nào làm cản trở bước chân lịch lãm của ông đâu? Ấy thế mà từ đêm qua đến giờ, hễ nhìn thấy bóng đêm là ông run sợ. Vườn nhà ông cây trái xum xuê, từ nay ông chỉ dám ra chơi ban ngày mà thôi. Ông nhớ có lần nghe người ta bảo ma lúc nào cũng hiện diện quanh ta, nhưng chỉ người nào ma muốn cho thấy, thì mới thấy được. ông tự hỏi tại sao ma lại chọn ông để hù dọa?. ông nghĩ mãi không tìm ra lý do. Một lúc sau, ông Phú vừa lật người nằm ngửa, thì bổng con mèo bên cạnh ông kêu rú lên, lao vọt qua cửa sổ, và chạy vùn vụt trên mái nhà, tiếng gào thét như xé màn đêm. Sau đó có tiếng gỏ cửa phía trước, ông Phú giật thót người, hất mạnh tấm chăn ra khỏi, ngóc đầu dậy lắng nghe. Vẫn những tiếng cọc cọc giống hệt đêm qua.
ông hít thở chờ đợi, tiếng gõ vang lên như giục giã, ông đưa mắt nhìn vợ, hy vọng là bà cũng nghe thấy. Nhưng bà vẫn đang say giấc nồng, hơi thở vẫn đang đều đều, chứng tỏ bà vẫn chưa thức giấc. ông Phú khẻ lay vai vợ, bà Phú trở người nằm nghiêng, úp mặt vào tường, xoay lưng về phía ông. Tiếng gõ cữa vẫn tiếp tục, tiếng mèo gào thê lương vẫn vang lên rộn rã, tiếng móng vuốt cào cào rin rít trên cánh cửa gỗ. ông Phú như người say thuốc, như kẻ bị hớp hồn, nữa tỉnh nữa mê, mất hết tự chủ, tung chăn bước xuống giường, thất thểu đi ra, ông tháo then ngang, đẩy rộng cánh cửa. Con mèo đen lao vọt lại chân ông, cắn gấu quần ông, lôi thật mạnh, như cố ý kéo ông vào nhà. Nhưng ông cứ đứng yên như người bị thôi miên...
Năm 1947, hai năm sau ngày thực dân Pháp tái lập lại nền đô hộ Ở VN. Các đảng phái lại đi vào hoại động ngầm! Những cuộc thanh toán lẫn nhau giữa các đảng phái tương đối lắng dịu không còn diễn ra dữ dội như hồi 1945! Nhưng không phải vì thế mà các cuộc truy lùng, giết hại lẫn nhau hoàn toàn chấm dứt! Nó chỉ giảm đi nhiều thôi ! Trong tình huống đó, các đội đặc nhiệm truy tìm của chúng tôi cũng như của các đảng phái khác (nhất là của Việt Minh) vẫn ngấm ngầm hoạt động, truy kiếm các thành phần nằm vùng của nhau để thủ tiêu . Thủ đoạn thịnh hành lúc bấy giờ là đột nhập vào nhà, bắt kẻ tình nghi bỏ vào bao bố rồi đem thả trôi sông _ Biết bao đảng viên của các đảng phái quốc gia đã bị CS thủ tiêu bằng cách này!! Chúng gọi là cho đi "mò tôm" !
Cũng năm đó tôi, một tổ trưởng trong một nhóm đặc nhiệm, nhận được một tin mật báo về địa chỉ của một tên đầu sỏ _ Hai Đầu Đà, tên hắn_ của các toán đặc nhiệm CS tại nội thành Hà Nội ! Ô Cầu Giấy là nơi hắn ở và cũng là cơ sở đầu nảo soạn thảo các kế hoạch hành động cho các toán đặc nhiệm của CS nội thành! Mừng rở vì chúng tôi có thể tiêu diệt được tên đầu sỏ khét tiếng đã từng gây nhiều điêu đứng cho các đảng phái quốc gia ! Chúng tôi bàn thảo kế hoạch, chọn thời điểm đột nhập nhà hắn. Tin chắc là sẽ thành công! Trời như giúp sức cho chúng tôi nên trong đêm hành động mưa rơi tầm tả như trút, trời tối đen như mực ! Chúng tôi ba người đột nhập vào địa điểm, còn 7 người lảng vảng phía ngoài để canh chừng và tiếp viện khi cần thiết . Nhưng khi tôi vào đến trong nhà thì chỉ thấy một người đàn bà trạc 30 nằm ngủ trên giường với một đứa bé trai chừng 10 tuổi mà tôi đoán là con của bà ta . Nghe tiếng động và thấy chúng tôi, bà ta ngồi bật dậy, rút lên sát đầu giường ! Tôi gằn giọng hỏi :
_ Thằng Hai Đầu Đà đâu ?!
Bà ta run rẩy chỉ lên phía đầu tủ thờ, trên đó có một lư hương với ba cây nhang vẫn còn đang cháy dở và một bức ảnh phóng to:
_ Anh ấy chết được hơn nửa năm rồi !
_ Láo khoét! Chúng tôi biết nó còn sống và đang lẫn trốn đâu đây ! Khôn hồn thì chỉ không thôi thì khốn cho bà đó !
Người đàn bà một mực nói là hắn đã chết! Cuối cùng vì sợ hãi quá bà ta chỉ cho chúng tôi chổ dấu một hộp sắt nhỏ nói là của Hai Đầu Đà để lại, đồng thời chỉ cho chúng tôi nơi chôn của hắn ! Không thể làm gì hơn chúng tôi lấy cái hộp sắt đó rồi bỏ đi ! Mấy hôm sau chúng tôi phái người tìm địa điểm ngôi mả của hắn để kiểm xem lời nói của người đàn bà kia ! Đúng ra chúng tôi đã tìm ra ngôi mộ của hắn nhưng vẫn chưa biết chắc là ai trong đó, có thể đây là một sự đánh lừa giả chết cũng nên! Cuối tuần đó khi tôi mở cái hộp ra và tìm thấy một số vật dụng cá nhân của hắn trong đó có một cuốn hồi ký do chính tay hắn viết . Đọc xong cuốn hồi ký mỏng này và sau khi kiểm nghiệm các sự việc khác do chúng tôi điều tra được, tôi thực sự tin rằng hắn đã chết _ Hắn tự kết liễu đời mình _ Và đây là nội dung của cuốn hồi ký !
(Chú ý là từ đây đến cuối truyện từ "Tôi" là do tên Hai Đầu đà xưng cho mình! Xin đừng lầm với nhân vật ở đoạn đầu !)
Tôi được sinh ra trong một gia đình nghèo! Bố tôi làm phu khuân vác tại bến tàu ! Làm việc vất vả mà tiền không được là bao nhiêu ! Mỗi tháng sau khi trả tiền nhà và các thứ nợ khác, tiền lương của bố tôi còn lại chẳng đủ cho gia đình! Mẹ tôi phải "đi ở" (làm đầy tớ) cho một nhà giàu ở Phố Hàng Đào để phụ thêm tài chánh cho gia đình! Tuy nghèo bốmẹ tôi vẫn cố cho tôi theo học lớp phổ thông ở trường tiểu học gần nhà ! Chúng tôi chỉ gặp nhau vào buổi tối mà thôi ! Bố mẹ tôi chỉ dám mua cho tôi một bộ quần áo mới trong dịp Tết, còn các thứ khác thì được xem là "vật xa xỉ" mà tôi chẳng bao giờ dám nghĩ đến ! Chúng tôi sống tạm ổn với cuộc đời nghèo nàn của mình ! Nhưng đường đời đâu bao giờ dược như mình mong ước, dù là cuộc đời nghèo mạt như chúng tôi ! Bố tôi vì quá lao lực đã ngã bệnh, nhà nghèo không tiền thang thuốc nói chi là đi gặp bác sỹ! Đến khi bệnh trở quá nặng, bố tôi cứ rũ ra trong những cơn ho không dứt! Mẹ tôi hàng ngày sau khi đi làm về, ghé vào ông lang đầu xóm cắt cho Bố tôi một thang thuốc rẻ tiền ! Bà sắc thuốc trong cái niêu sành mẻ miệng và rót cho bố uống ! Cuối cùng sau ba tháng dài liệt chiếu, bố tôi đã ra đi vĩnh viễn ! Nhà chức trách cho người xuống bảo mẹ tôi phải chôn gấp vì cho là bố tôi bị lao ! Để lâu sẽ lây lan cho hàng xóm ! Tiền bạc không có mẹ tôi đành thuê người chôn bố ở nghĩa địa công, với chỉ một cái chiếu manh quấn làm quan tài !! Tôi khóc lóc thảm thiết cả tuần ! Tôi oán hận tất cả mọi người ! Tôi rủa cả ông trời ! Ông ta không công bằng! Tạo ra cảnh bất công của xã hội này ! Tôi oán ghét những người giàu có, những tên chủ bóc lột sức lao động của bố tôi! Tôi căm ghét luôn những viên chức nhà nước những người đã đối xử tàn tệ với bố tôi dù ông chỉ là một xác chết họ vẫn không thôi hành hạ Ông !
Mẹ tôi không thể một mình cáng đáng mọi việc trong gia đình! Tôi phải bỏ học để đi đánh giày trong các phố ! Nhìn những người ăn mặc sang trọng ăn uống trong các nhà hàng lộng lẫy tôi thấy chua xót cho cuộc đời của đám dân nghèo như chúng tôi ! Nhiều hôm đánh giày cho họ xong, tiền đã không trả mà họ còn chân thì đá vào bụng tôi vài cú miệng thì chửi rủa là đánh giầy gì mhư "hạch" vậy ! Tôi chỉ biết ôm đầu ch.iu và cắn răng để nước mắt khỏi phải trào ra !! Cuộc đời tôi cứ thế trôi đi ! Trong cuộc sống lê lết ở vĩa hè trong cái nội thành Hà Nội này đã biến tôi thành một kẻ chai lì ! Để sống tôi phải đấu tranh, phải giành giật, phải lừa lọc với đời ! Cuối cùng tôi đã thành một tên anh chị, một tên đâm thuê chém mướn nổi tiếng. Giới giang hồ ở đây đặt cho tôi cái biệt danh "Hai Đầu Đà", có lẽ do tôi lì lợm mà có danh ấy cũng nên . Nhưng rồi sau một vụ chém mướn, có người tố cáo tôi và cảnh sát đã tóm tôi cho vào nhà lao! Trong ba năm trời trong tù, mẹ tôi thường tới thăm, mỗi lần thấy tôi bà lại khóc sướt mướt, rồi thì khuyên tôi sau này ra hãy hứa làm nghề lương thiện ! Tôi thương mẹ lắm nên hứa với bà để mẹ tôi được yên tâm ! Thật ra thì mẹ tôi không biết gì về các việc mà tôi làm trước đây ! Trong lòng bà, tôi chỉ là một đứa con trai bé bỏng mà thôi ! Thật tội nghiệp cho mẹ tôi, một người mẹ Việt Nam như hàng triệu các bà mẹ Việt Nam khác !
Khi mãn hạn tù tôi đã được 25 tuổi. Tôi về nhà với mẹ, bà tôi khuyên tôi xin vào làm phu khuân vác ở bến tàu như bố tôi thủa trước ! Tôi không có cách gì khác để làm cho đời tôi khá hơn được! Khuân vác cũng là khá lắm rồi, phải có sức khoẻ và to con họ mới nhận chứ phải chơi đâu! Tôi vào đó làm được chừng 3 tháng thì một trưa kia khi tôi đang ăn "cơm nắm" mà mẹ vắt cho tôi mỗi ngày, một người trung niên cũng là công nhân khuân vác như tôi đến cạnh thì thào vào tai tôi là muốn gặp tôi tại sau nhà kho khi tan việc ! Tôi cũng có nghe lời đồn xì xào về những tổ chức bí mật cũng như công đoàn v.v.. Tôi tò mò muốn biết ra sao nên nhận lời ! Trong buổi gặp gở đầu anh ta chỉ đề cập về quyền lợi của công nhân, sự bóc lột của giai cấp chủ nhân . Nhưng các lần sau thì anh ta tuyên truyền nhiều hơn rồi sau cùng kêu gọi tôi vào đảng của anh ta để đấu tranh cho giai cấp ! Với bầu máu nóng của thanh niên và với mối hận vẫn âm ỉ trong lòng từ khi bố tôi chết, tôi gia nhập hội của anh ta mà chẳng biết là hội tên gì nữa ! Cứ thế chúng tôi tuyên truyền lôi kéo được khá đông công nhân trong khu vực của chúng tôi !
Một ngày kia, tôi được anh ấy cho đi gặp các cán bộ chỉ đạo của hội, họ đề cử tôi vào biệt đội đặc nhiệm ! Nhiệm vụ là tìm kiếm và thủ tiêu các phần tử chống lại giai cấp công nhân, các thành phần tư bản địa chủ v.v.. ! Có lẽ là họ biết được thành tích trước kia của tôi và nói rằng tôi rất thích hợp cho công tác này ! Chỉ sau cuộc họp này tôi mới biết là tôi đang hoạt động cho đảng "Việt Minh" . Mãi sau này tôi mới biết Việt Minh là một đảng CS trá hình! Dù gì đi nữa tôi vẫn gia nhập đảng vì lòng căm thù giai cấp của tôi ! Lúc đầu tôi chỉ là một thành viên trong toán này. Chúng tôi ngày thì là những người dân lương thiện, kẻ là phu khuân vác, người là anh kéo xe v.v.. để che mắt nhà cầm quyền và các đảng phái khác! Nhưng đêm về thì chúng tôi hội họp bàn thảo kế hoạch, tìm kiếm tin tức về các thành phần mà chúng tôi đã ghi vào "sổ đen" ! Lúc này đảng Việt Minh còn yếu nên phạm vi hoạt đông của chúng tôi chỉ nhắm vào một số ít thành thành đặc biệt thôi . Tôi được giao nhiệm vụ thủ tiêu một viên chức người Việt làm ở phủ của quan toàn quyền Pháp hắn được liệt kê là việt gian trong sổ đen của chúng tôi, ngoài ra tôi cũng được giao việc thanh toán hai người thuộc VNQD đảng! Với kinh nghiệm sẳn có trước kia, tôi hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn! Trong khoảng thời gian này tôi lấy vợ và có một con trai đầu lòng . Chúng tôi không ở một chổ lâu vì lý do an ninh và bảo mật.
Người đội trưởng của nhóm tôi bị tai nạn xe cộ và qua đời, cán bộ thành nội đề cử tôi thay thế . Thế là bổng dưng trong tay tôi là một nhóm người mà tôi có quyền ra lệnh hành quyết những ai mà tôi muốn ! Với quyền lực này tôi đã ra lệnh hạ sát một số kẻ thù của tôi trước kia dù là họ chẳng dính dáng gì đến chính trị hay giai cấp cả ! Đến sau 1940, khi cuộc Đệ Nhị Thế Chiến đang diễn ra ác liệt trên thế giới, Pháp thua trận ở Âu Châu và như con sâu rút vào kén ở các vùng thuộc địa ! Việt Minh dùng thủ đoạn lừa đảo kêu dụ các đảng phái mạnh khác để thiết lập chính phủ và cái gọi là "Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội" để bành trướng thế lực, đồng thời trong bóng đêm tìm cách tiêu diệt các đảng khác hầu chiếm trọn chính quyền và công lao !
Đảng ra lệnh cho chúng tôi bành trướng phạm vi hoạt động, tuyển thêm thành viên và thiết lập nhiều toán đặc nhiệm trong nội thành cũng như ở các tỉnh khác ! Tôi với kinh nghiệm được đề cử làm Tư lệnh các đội đặc nhiệm trong nội thành Hà Nội ! Chúng tôi đã cho đi mò tôm rất nhiều đảng viên của các đảng phái khác ! Đêm nào cũng có ít nhất 15 bao bố được chúng tôi thả xuống sông Hồng !
Vào cuối năm 1945, Pháp dựa vào quân Anh, lại mang quân tái chiếm Việt Nam, các đảng phái kể cả Việt Minh đều rút về hoạt động trong các vùng rừng núi hay hoạt động ngầm trong lòng địch ! Tôi được giao phó điều khiển các đội đặc nhiệm nằm lại hoạt động ngầm trong lòng thành phố . Hoạt động giảm đi rỏ rệt lâu lâu chúng tôi mới thủ tiêu một người mà thôi ! Cuối năm 46, trong một cuộc đột nhập vào nhà một tên đảng viên cao cấp của VNQD đảng, chúng tôi tóm được hắn và bỏ bao bố, lôi ra bờ sông Hồng. Hắn lì lợm chẳng nói một câu van xin nào như nhiều người khác thường làm ! Tôi bực lắm, thay vì ném hắn xuống sông như thường lệ ! Tôi quyết định mang hắn ra, cầm cái mã tấu trong tay và với một cái lia nhẹ, đầu hắn lìa khỏi cổ lăn long lóc trên bờ đê ! Tôi ra lệnh nhặt đầu hắn lên treo trên một cây sào để làm gương và cảnh cáo bọn đồng đảng của hắn ! Xong xuôi trước khi về tôi lấy "đèn bấm" (đèn pin) rọi xem đầu hắn có được cho quay về hướng tôi nói không ! Tôi bổng ớn lạnh cả xương sống, cái đầu lâu đang trợn mắt nhìn tôi như đe dọa và nhăn răng cười chế diểu tôi ! Tôi chớp mắt lia lịa để định thần rồì nhìn lại cho rỏ lần nữa, cái đầu lại trở lại bình thường _ Mắt và miệng nhắm chặt với vẻ đau đớn còn hằn trên nét mặt _ Tôi nhủ thầm : Mình hoa mắt thôi ! Nó chết mẹ nó rồi còn mở mắt với cười gì nổi nữa !! Chúng tôi ra về thì gà cũng cất tiếng gáy canh đầu !
Đúng ba hôm sau, khi tôi vào giường ngủ, vừa chợp mắt được vài phút thì cái đầu lâu đã hiện ra trong giấc mơ ! Nó bay lơ lững trước mặt tôi, mắt mở trao tráo như đe dọa, miệng cười nhe cả hàm răng
với mấy chiếc răng cửa vàng khè vì thuốc lào ! Nó không nói một lời chỉ lơ lửng tại một chổ mà thôi ! Tôi một thằng đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp mà đi sợ một cái đầu lâu kia sao ! Dù trong mơ, tôi vẫn
vùng đứng dậy quơ lấy cây gậy dưới gầm giường quật tới tấp vào cái đầu lâu đó ! Nhưng không sao tôi quật trúng nó được, nó bay qua bay lại tránh một cách tài tình ! Mệt quá tôi bỏ cả gậy ngồi xuống giường ! Lúc này cái đầu bay sáp lại gần tôi, tôi nghe rỏ cả tiếng nghiến răng nhè nhẹ của nó, tiếng cười như chế diễu mà **i cả tai tôi ! Tôi quơ tay cố gạt nó ra nhưng không tài nào **ng được nó cả . Rồi nó bay sát ngay trước mặt tôi phun phèo phèo và le lưỡi liếm vào má tôi ! Kinh hải quá tôi thét lên ! Vợ tôi lay lay vai tôi nói:
_ Anh mơ gì mà la hét khủng khiếp thế !?
_ Anh chỉ bị ác mộng thôi em ạ ! Không có gì đâu !
Và cứ thế đêm nào tôi cũng gặp những cơn ác mộng tương tự !! Tôi phải ngồi thức trắng đêm! Ngày đi làm tôi mệt lữ người vì thiếu ngủ ! Mấy lần té cả xuống sông cả người lẫn bao gạo trên vai ! Tên cai
coi bến đã đuổi tôi về mấy lần và hăm dọa đuổi việc! Tôi phải nhờ mua thuốc ngủ và uống hơi quá đô để tìm giấc ngủ về đêm! Dù thế tôi vẫn gặp cái đầu lâu trong mộng như thường! Tôi hốc hác hẳn đi trông thấy ! Thành ủy thấy vậy bảo tôi tạm nghỉ việc ở bến tàu để dưỡng sức, dầu gì tôi cũng là tư lệnh các toán đặc nhiệm mà . Một chức vụ quan trọng và tôi có thành tích xuất sắc không một ai qua mặt được ! Dù ở nhà tôi vẫn được đảng bộ cung cấp về tài chánh nên tôi không phải lo lắng gì ! Tôi xin tạm nghỉ làm ở bến tàu một thời gian! Rỗi rảnh , tôi dẫn đứa con trai lên tám đi chơi khắp nơi ở Hà Nội! Khi thăm sở thú, tôi dẫn thằng bé đến chuồng khỉ xem. Con tôi chỉ một con khỉ đang đeo tòn teng trên cành cây rồi reo lên:
_ Bố xem con khỉ kia nó đang cười với con kìa !
_ Đâu đâu ? _ Tôi hỏi lại và nhìn theo tay nó chỉ.
Trời ơi, trên cái thân mình nhỏ bé của con khỉ là cái đầu lâu tổ bố, mắt trừng trừng, miệng cười nhăn nhó của tên VNQD đảng. Nó nhìn tôi chòng chọc và cười the thé lên . Con tôi lại reo lên:
_ Nó cười với mình kìa bố, con cho nó ăn đậu phụng nghe bố !
Con tôi đưa hột đậu phụng vào lưới sắt, con khỉ bước lại gần cùng với cái đầu lâu trên cổ nó! Tôi thấy nó nắm lấy tay con tôi rồi nói:
_ Đền mạng cho tao ! Đền mạng cho tao !
Tôi sợ hải giật tay con tôi ra thật mạnh, tay nó bị sướt vào lưới tứa máu ra . Tôi hốt hoảng dùng khăn tay bó vết cắt cho con rồi hỏi:
_ Sao con cho nó nắm tay con !?!?
_ Đâu có bố ! Nó chỉ bốc hột đậu trên tay con thôi mà !
Tôi dẫn con tôi một mạch về nhà ! Ngày kế tôi quyết định dẫn con ra công viên với hy vọng không khí trong lành và sân cỏ rộng rãi sẽ làm cho tôi quên đi sự ám ảnh ! Chúng tôi mang theo một trái banh để chơi ở đó . Ngồi chơi một lúc con tôi đòi chơi bóng đá . Nó đá tôi bắt "gôn" . Con tôi lừa tới gần và "sút", trái bóng bay gần tới, tôi giơ tay dón bắt ! Trời đất ơi ! Trong tay tôi là cái đầu đang cười với tôi, mắt trừng trừng, miệng thì thào " Đền mạng cho tao ! Đền mạng cho tao !" Tôi vất mạnh cái đầu xuống đất, nó bật ngay lên lại tay tôi và vẫn với gương mặt ghê rợn đó nó thều thào câu quen thuộc " Đền mạng cho tao! " Tôi quăng nó thật xa rồi ù té chạy ! Con tôi ôm quả bóng đuổi theo tôi ! Tôi vẫn nghe tiếng cái đầu trên tay nó gào theo tôi " Đền mạng cho tao! Đền mạng cho tao !" Tôi chỉ kịp nghe tiếng xe thắng gấp mà thôi !!
Khi mở mắt ra tôi thấy chân tôi quấn băng trắng toát, bên cạnh là vợ và con ngồi ngồi nhìn một cách lo lắng! Thấy tôi mở mắt vợ tôi mừng rở hỏi:
_ Anh tỉnh rồi à ? Em mừng quá ! Anh chạy đi đâu mà như điên vậy ! Đâm đầu vào xe mà cũng không biết nữa ! May là không chết ! Lần sau anh phải để ý một tí nghe !
_ Anh bị ***ng mặt nên chẳng thấy xe chạy đến ! Về sau anh sẽ ý tứ hơn . _ Tôi ậ ừ cho qua việc !
Tôi vẫn dấu kín ọi việc xảy ra cho tôi, nên không ai biết là tôi bị cái đầu oan nghiệt kia đòi nợ máu ! Thôi thì cứ yên lặng đừng gây thêm lo lắng cho người thân mình _ Tôi tự nhủ với mình như vậy !
Luật của nhà thương không cho thân nhân ở lại đêm nên tối đến vợ con tôi ra về. Họ chúc tôi yên giấc và nói ngày mai sẽ mang thêm vật dụng cần thiết và thức ăn hoa quả vào thăm tôi . Nằm thao thức và đang nghĩ vơ vẩn về những việc xảy ra cho tôi trong thời gian gần đây! Tôi nghe có tiếng cười nhẹ the thé trong phòng! Quay ngoắt lại tôi thấy trên cái giá treo bóng đèn điện là cái đầu oan nghiệt đang chăm chú nhìn tôi! Chỉ là cái bóng đèn mà! Tôi cố tự nhắc lớn tiếng với chính mình và dụi mắt để nhìn cho rỏ để xác định điều mình nói ! Không, dù tôi có muốn nó là bóng đèn cách mấy đi nữa thì hiện diện trước mắt tôi vẫn là sự thật phủ phàng ! Cái đầu vẫn trơ trơ ra đó, vẫn nhe răng cười với tôi, vẫn con mắt trợn trừng như thù hận đó nhìn tôi không chớp . Xen lẫn tiếng cười nhỏ nhưng the thé là câu rên siết quen thuộc "Đền mạng cho tao! Đền mạng cho tao!" Tôi thét lớn và lăn xuống giường ! Có tiếng chân chạy thình thịch về phòng tôi và rồi tiếng mở cửa:
_ Cái gì mà la lối ầm lên vậy ?! Đây là nhà thương chứ không phải nhà tư mà muốn làm gì thì làm nghe chưa !!
Nhưng khi thấy tôi nằm lăn quay, run giật như bị kinh phong đưới đất, cô y tá chạy tới nâng tôi lên hỏi:
_ Có sao không? Chuyện gì xảy ra vậy ?
_ Nó, nó ở kia kìa !! _ Tôi run rẩy chỉ về phía bóng đèn !
_ Cái bóng đèn đó à ? Nó là ai vậy ?!
_ Cái, cái đầuuu lâuuuu trênnn đooó đooó ! _ Tôi nói không thành lời.
_ Anh có bị điên không đó ! _ Cô ta hỏi lại với giọng nghi ngờ !
_ Không nó vẫn ở đó kìa ! Nó đang cười với tôi kìa !! _ Tôi tay vẫn chỉ cái đầu lâu miệng thều thào với người y tá !
Cô ta lắc đầu rồi giúp tôi nằm lại lên giường! Suốt đêm đó tôi quấy động nhà thương cả chục lần vì cái đầu lâu chẳng chịu bỏ đi cho ! Trước kia nó chỉ viếng tôi một ngày vài lần rồi biến đi ! Lần này nó ở lì với tôi trong phòng suốt đêm ! Sáng hôm sau bác sỹ tới khám cho tôi và đọc bệnh án mà các y tá ghi thêm vào tối qua ! Ông ta quyết định cho tôi qua khu "tâm thần", khu dành cho các người mất trí . Ông ta cho rằng vì tôi bị xe tông ngã xuống đường nhựa có lẽ đầu tôi bị chấn thương nên tôi mới trở nên như vậy . Bác sỹ mà, nói gì mà chẳng có người nghe! Thế là tôi bị gửi sang khu tâm thần dù trong đầu tôi biết chắc là tôi chẳng điên một tí nào cả !
Chiều đến vợ tôi vào thăm và ngạc nhiên thấy tôi năm chung với các người ngớ ngẩn khác ! Tôi giải thích là bác sỹ lầm tưởng tôi bị tổn thương sọ não nên cho tôi qua đây ! Tôi trấn an vợ rằng vài bữa không có gì họ sẽ cho tôi về nhà thôi !
Vợ tôi mang trái cây, một số thức ăn và hai chai nước ngọt "con cọp" của hảng BGI vào cho tôi. Ăn uống xong vợ tôi ở lại một lúc rồi ra về . Trên trần nhà là cái quạt trần cũ, quay kẻo kẹt như bị khô dầu! Nó như cố lắm mới quay hết được một vòng !
Nhà thương thí mà có được cái quạt máy trên trần là phước lắm rồi. Cố nhắm mắt ru giấc ngủ, tôi lại nghe tiếng rên siết thê thảm theo nhịp kẻo kẹt của cái quạt trên trần ! Tôi bịt tai lại để cái tiếng quái ác kia không lọt vào tai! Vô hiệu! Tôi vẫn nghe nó một cách rỏ ràng như ai đó đang nói bên mang tai tôi ! Tôi tự nhủ là không được mở mắt nhìn lên, nhưng một mãnh lực vô hình nào đó bắt tôi mở trừng mắt ra nhìn hướng về phía trần nhà! Tôi đoán không sai! Cái đầu lâu đang quay từ từ trên đó, mắt nó luôn hướng về tôi ! Miệng vẫn nhe ra nói thì thào câu mà tôi đã thuộc như in "Đền mạng cho tao! Đền mạng cho tao!" Đến nước này rồi tôi đổi sợ thành liều trả lời nó :
_ Mày muốn trả gì thì cứ nói! Mày theo ám ảnh tao lâu rồi, muốn trả gì thì cứ nói ra đi, tao nghe đây !
_ Mày hãy đền mạng mày cho tao!
_ Có giỏi thì hãy giết tao đi! Tao sẳn sàng đây !
_ Không! Chính tay mày giết tao! Tao muốn tự tay mày tự xử mày thôi!
_ Tao không tự giết tao !! Coi mày làm gì được tao đây !!
Tôi nằm nhìn lên như thách thức nó! Lúc này cái đầu lâu không chỉ còn là cái của tên VNQD đảng nữa, mà nó biến đổi liên miên! Lúc là của tên làm trong phủ toàn quyền Pháp, lúc thành đầu của các tên của các đảng phái khác, lúc lại là của những tên
mà vì thù oán riêng tôi đã ra lệnh hạ sát !! Chúng réo gọi tôi đòi trả nợ máu! Rồi thì những cái đầu đó bắt đầu bay thẳng vào mặt tôi ! Tôi né tránh chúng đến mệt nhoài! Cuối cùng rồi tôi để mặc chúng, tôi hứng chịu những cú đập vô hình
khắp mặt mày! Đau đớn quá, tôi chỉ còn biết quơ hai tay để xua gạt những cú hít kinh hoàng này! Miệng tôi không ngớt la hét, chửi rủa các đầu lâu kia! Thỉnh thoảng một người trực nhà thương ghé qua nhìn tôi và lắc lắc đầu có vẻ thương hại cho tình
trạng của tôi!! Tôi bị mất ngủ đã quá nhiều ngày, mắt tôi đỏ lòm như tôm luộc! Râu tóc mọc lởm chởm tôi không buồn cắt gội ! Nếu ai thấy cái bề ngoài của tôi có lẽ họ sẽ tin lời của tên bác sỹ _ Nó là một thằng điên nặng!!! Tôi cũng đoán ra điều này khi nhìn thái độ dè dặt của các y tá thăm bệnh cho tôi hàng ngày! Tôi tự biết mình rất tỉnh táo, đầu óc tôi vẫn minh mẫn, chỉ có một việc là tôi không thể điều khiển được các hành vi và lời nói của tôi! Hình như chúng bị các oan hồn chi phối rồi thì phải ??!!!
Sáng hôm sau họ dời tôi vào phòng biệt cư, nơi dành cho các người bị điên nặng!! Lý do là họ sợ tôi làm hại đến các bệnh nhân khác chung quanh tôi! Chiều đến vợ con tôi vào thăm! Nhìn con mà tôi ứa nước mắt! Thương cho nó rồi đây tương lai sẽ ra sao! Chắc lại rơi vào tình trạng đói nghèo như tôi lúc nhỏ chăng ?!?! Chỉ có lúc gặp vợ con là tôi giữ được sự bình thản, tôi kìm chế được lời nói và hành động của chính tôi ! Tôi không biết là do đâu ! Nhưng đoán là do tình thâm đã thắng được cả mảnh lực vô hình!! Chúng tôi nói chuyện với nhau một hồi, nhắc lại những kỷ niệm êm ấm của các năm qua! Ăn uống xong vợ tôi ngập ngừng nói:
_ Anh à ! Thành ủy tháng này không cấp tiền trợ cấp cho chúng ta nữa!
_ Sao vậy ?! _ Tôi vội ngắt ngang.
_ Em không biết ! Nhưng em có hỏi anh Tư thì anh ấy nói nhỏ cho em biết là họ đã quyết định loại trừ anh rồi! Đã có người thay thế chức vụ của anh! Họ nói anh bây giờ chỉ là một thằng điên vô dụng mà thôi!!
Tôi im lặng nghĩ ngợi một hồi rồi nói vợ tôi ra căng tin mua cho tôi một cuốn vở nhỏ và một cây bút bi! Xong việc vợ con tôi ra về! Tôi cay đắng trong lòng lắm! Bây giờ mới biết rỏ bộ mặt thật và chính sách vắt chanh bỏ vỏ của bọn chúng thì đã quá muộn rồi ! Tay tôi đã nhúng máu của bao người rồi ! Tay tôi đã nhúng chàm làm sao rửa sạch được đây ! Tôi muốn viết lại những gì đã xảy ra trong cuộc đời của tôi, những gì tôi đã làm và những gì tôi đã nghĩ ! Tôi đã có quyết định cho chính tôi rồi ! Vợ con tôi không phải
lo lắng vì có thêm một gánh nặng trong cuộc đời lao đao của họ nữa ! Các oan hồn kia ơi! Chúng mày chẳng cần phải theo ám ảnh tao nữa làm gì! Tao đã có quyết định rồi ! Suốt ngày hôm sau tôi cố ôn lại cái dĩ vảng của tôi và ghi nó vào những trang giấy của quyển sách mỏng này!
Đến chiều nhân viên trực mang cho tôi một tô cháo hành, tôi định múc một thìa cháo để ăn ! Tôi không nhấc cái thìa lên được ! Tô cháo đã biến thành cái đầu lâu miệng cắn chặt cái thìa của tôi! Tôi đã mất hết niềm tin! Hết cả hy vọng là mình sẽ được đối xử như một người bình thường trong xã hội này ! Tôi buông tay để chiếc thìa lại trong miệng đầu lâu, rồi nói với nó:
_ Mày không phải chờ lâu đâu !
Đêm đến, các oan hồn vẫn réo gọi quanh tôi! Tôi làm ngơ với chúng, tôi chẳng thèm tránh hay gạt những cú phóng vào mặt mình nữa ! Vào nửa đêm, tôi đập bể cái chai nước ngọt con cọp, cầm một mảnh vỡ sắc trong tay phải rồi để cánh tay trái trên tấm khăn trải giường ! Các mạch máu nổi to trên cổ tay gầy guộc của tôi ! Tôi không gặp khó khăn khi đưa cái mảnh chai cứa vào cái mạch đó ! Tôi nhìn giòng máu phún mạnh ra trên tấm khăn giường trắng, rồi đưa mắt nhìn lên trần nhà chiếc đầu lâu đang nhìn tôi cười thoải mái lắm ! Mắt tôi mờ dần đi ! Cái đầu lâu cũng nhạt nhòa đi ! Tôi cố gắng xé một trang giấy và viết "Xin giao cái hộp này cho vợ con tôi!" Tôi bỏ quyển vở vào cái hộp sắt đựng bánh "bích quy" trong đó có vài vật dụng cá nhân của tôi, rồi bỏ tờ giấy lên trên và đặt nó lên chiếc bàn nhỏ ở kế giường!
Sáng hôm sau người y tá nhìn qua cửa phòng thấy bệnh nhân nằm vắt ngang giường, máu thấm đầy khăn trải! Anh ta la lớn kêu mọi người vào xem ! Rồi lo thủ tục đưa xuống nhà xác và báo cho thân nhân tới lãnh về ! Trong hồ sơ bệnh án ghi : Bệnh nhân lên cơn điên ! Tự cắt cổ tay mình trong đêm.
Chú thích:
Viết theo lời kể của một người đảng viên thuộc VNQD đảng .